Chuyện
qua những người thân về người con trai cả của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt
Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã mất vợ và 3 người con trong chiến
tranh. Một trong 3 người con của ông là bạn của chúng tôi – Võ Dũng – người bạn
học ở trường Thiếu sinh quân Nguyễn Văn Trỗi. Võ Dũng là một trong 30 học sinh và thầy giáo Trường Thiếu sinh quân
hy sinh, là một trong những niềm tự hào của học sinh trường Trỗi!
Võ Dũng, Hoàng Sùng, Nguyễn Bình hè 1967, Quế Lâm, TQ. (Ảnh Nguyễn Bình lưu giữ mới tặng lại anh em năm 2012). |
Võ Dũng,
bạn tôi thuở ấy
Ngày 5/8/1964, sau Sự kiện Vịnh Bắc bộ, đế quốc Mỹ bắt đầu
chiến tranh phá hoại ra miền Bắc XHCN. Tháng 3/1965, chúng mở rộng chiến tranh
phá hoại, tăng cường những cuộc không kích ném bom các tỉnh miền Bắc. Bọn trẻ
chúng tôi khi đó tuổi mới 12-13 (có cha mẹ là cán bộ trung, cao cấp trong và
ngoài quân đội đang chiến đấu, công tác ngoài chiến trường) được tổ chức cho đi
sơ tán xa thành phố, tránh bom đạn. Ngày đầu ở gần Phố Thắng, Hiệp Hòa, Hà Bắc
(nay là Bắc Giang).
Bọn trẻ chúng tôi ở trường ngày ấy, ngoài thời gian ôn tập lại
chương trình lớp 5 là các giờ học Điều lệnh nội vụ, tập đội ngũ, quân phong
quân kỉ… Buổi chiều sau giờ tự tu (tự học), chúng tôi có “tiết mục” tưới rau,
chăm vườn lấy rau xanh cải thiện bữa ăn; sau đó đá bóng rồi ra mương thủy lợi
sau trường bơi lội. Các thầy còn dạy đào hào, làm công sự; đi lên lớp hay xuống
nhà ăn phải đi đều; khi ăn phải dùng đũa 2 đầu... Tất cả chúng tôi hào hứng với
những “khái niệm nhà binh” hoàn toàn mới. Ngày đó ở lớp có cả các bạn từ các
trường Học sinh miền Nam về học. Cánh học sinh miền Nam từng sống xa cha mẹ
nhiều năm, nên trò nghịch ngợm nào của lũ trẻ sống tập thể cũng biết. “Học thầy
không tày học bạn”, Võ Dũng luôn cầm chòm các trò nghịch này; hết lấy que diêm
cháy làm “muỗi Sài Gòn” dính vào chân bạn, đến lấy kim khâu và mực Tàu xăm hình
lên cánh tay hay trốn ngủ trưa ra mương câu cá, mò cua…
Ngày đó, Dũng tuy nghịch ngợm nhưng đã là một cậu bé có tinh
thần gan dạ, dũng cảm. Khi không khí chiến tranh lan tới nơi đây, trường chúng
tôi học nằm ngay dưới đường bay của giặc Mỹ tới ném bom Nhà máy Phân đạm Hà
Bắc. Những lần có máy bay Mỹ, cả bọn bị “lùa” xuống hầm trú ẩn, nhưng trẻ con nào có sợ gì, đứa nào cũng cố
thò cổ lên xem máy bay, trong khi bom đạn cứ nổ ùng oàng phía xa. Riêng Võ Dũng
cứ đứng ngay trên miệng hầm, lấy tay che mắt nhìn pháo cao xạ của ta bắn lên.
Thấy cả tên lửa rạch trời vút lên, rồi chớp nổ màu da cam, cả bọn hô ầm ỹ:
“Hoan hô, cháy rồi, cháy rồi!”.
Chuyện
kể qua em gái Võ Hiếu Dân
Dù chơi với nhau, bọn tôi cũng ít hỏi cha mẹ bạn mình là ai,
làm gì. Chúng tôi hầu như không biết bạn tôi là con của ông Tướng này, hay Ủy
viên Bộ Chính trị kia. Với Võ Dũng cũng thế, chưa bao giờ chúng tôi biết bạn là
con của chú Sáu Dân – người sau này trở thành Thủ tướng Võ Văn Kiejt. Phải hàng
chục năm sau khi Võ Dũng đã hy sinh, gặp cô em gái Võ Hiếu Dân, tôi mới được
nghe Hiếu Dân kể về gia cảnh: “Má Trần
Kim Anh là người phụ nữ đẹp. Ông bà
ngoại buôn bán, khá giàu có ở miền Tây. Chính ông bà đã lo tiền bạc cho ba đi
hoạt động. Ba cưới má đến 1951 thì sinh anh Dũng tại Rạch Giá. Họ nội chính là
họ Phan, nên anh Dũng có tên khai sinh là Phan Chí Dũng....Sau 1954, ba không
tập kết mà ở lại hoạt động bí mật, lúc ở rừng khi về thành phố; còn Dân và anh
Dũng lếch thếch theo má, sau lưng là emgái Ánh Hồng (sinh 1958), giạt hết nơi
này đến nơi khác. Vì chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp dã man, sau Luật 10/59,
cơ quan Trung ương Cục phải tạm lánh sang Phnôm-pênh. Ba đưa 2 anh em theo
cùng. Ngày đó chính quyền của Quốc vương Sihanouk rất có cảm tình với Việt Nam,
nên đây là “chỗ dựa liền lưng” tin cậy. Tại đây, họ cho phép ta ra tờ báo tiếng
Việt có tên“Trung Lập” và mở một rạp chiếu bóng. Anh em Dũng cùng con em một số
cán bộ ta sang đây từng được xem phim “Chung một dòng sông”, “Lửa trung tuyến”,
“Trở lại Điện Biên”, “Công trình thủy nông Bắc-Hưng-Hải” “Đáng đời thằng cáo”…
ở rạp này.
Năm 1960, ba quay lại Nam bộ. Từ Phnôm-pênh, 2 anh em được các
chú đưa ra miền BắcXHCN. Có chú gọi là “Má Chín” lo mọi thủ tục giấy tờ cho các
cháu con em Trung ương Cục. Hôm đó cả bọn theo Má Chín ra sân bay Pô-chen-tông,
bay chuyến bay của Air France qua Hồng Kông. Má Chín dặn không được nô đùa,
nghịch ngợm (chắc sợ bị lộ đường dây?). Từ sân bay Hồng Kông, sau khi làm thủ
tục nhập cảnh thì lên xe chạy tới bến phà biển, sang Quảng Châu (Trung Quốc).
Nghỉ ít ngày thì lên tầu liên vận về Hà Nội. Hai anh em xa ba má khi anh Dũng
mới 9 tuổi, còn Dân lên 5… Nhưng trong cái không may lại có những may mắn, 2
anh em được dì Bảy Huệ (vợ cố TBT Nguyễn Văn Linh) đón về nuôi ở 19 Tông
Đản;gặp cả anh em Trần Phong, Trần Minh (con chú Hai Sớm) cũng ra năm sau. Dì
Bảy chăm sóc 2 anh em chả khác gì má ở nhà.
Vì Dân còn bé nên ở Hà Nội đi học với Hòa, Bình - con dì Bảy.
Anh Dũng được gửi vào học trường Học sinh miền Nam số 19, 21 ngay Cầu Rào, Hải
Phòng. Đến năm 1963, Bộ Giáo dục có chủ trương cho những học sinh miền Nam có
ba mẹ hoặc người thân ở miền Bắc về sống với gia đình, tạo điều kiện được chăm
sóc tốt hơn. Anh Dũng được dì Bảy đón về. Trong đại gia đình, anh Dũng lớn hơn cả, rất
thương yêu và nhường nhịn các em. Dân cùng Hòa, Bình và Linh con dì Bảy coi anh
là thần tượng. Tối tối trước giờ đi ngủ, anh Dũng hay kể những chuyện trinh
thám đầy bí hiểm và hấp dẫn. Vừa kể anh vừa hóa thân thành các hiệp sĩ oai
hùng, luôn đấu tranh bảo vệ chính nghĩa”.
Võ Dũng – bạn tôi và em gái Hiếu Dân sau này có thêm em út là
Phan Chí Tâm sinh đầu 1966. Nhưng sau
khi sinh em, thì một nỗi đau mất mát vô cùng lớn xảy ra má Kim Anh cùng 2 em
Ánh Hồng và Chí Tâm sống ở Sài Gòn. Chú Sáu Dân khi đó là Bí thư Khu ủy T4 (Khu
Sài Gòn – Gia Định), sống trên cứ. Cuối năm ấy, Trung ương Cục cử côTư về Sài
Gòn đón má Kim Anh và 2 em lên cứ. Đi xe đò không an toàn nên cô Tư đã điều nghiên và chọn chuyến đi theo đường
sông. Từ Sài Gòn có những chuyến tàu sông, chở khách lên mạn Dầu Tiếng, Tây
Ninh. Con tầu Thuận Phong thường chở vợ con sĩ quan, binh lính ngụy lên thăm
chồng ở đồn Dầu Tiếng được cô Tư chọn. Oái oăm thay, đúng thời gian này lính
ngụy tổ chức trận càn lớn. Ngày 17/12/1966, có lệnh thiết quân luật, cấm mọi
tàu bè chạy qua khu vực Củ Chi. Ông chủ tàu Thuận Phong đêm trước say rượu,
không hay biết tin; sáng ra vẫn cho tàu rời bến. Rời Sài Gòn hơn tiếng đồng hồ
thì tàu vào vùng cấm;chả cần cảnh cáo, đoàn trực thăng yểm trợ cứ thế bắn xối
xả, con tàu trúng đạn, chìm dần. Toàn bộ hành khách trên tàu không còn ai sống
sót. Má Trần Kim Anh, em Ánh Hồng và Chí Tâm đều chết trong chuyến tàu định
mệnh này. Khi tin dữ đến với chú Sáu Dân, ông đau đớn vô cùng, liền mấy ngày
liền, ông đi dọc bến sông nơi tàu Thuận Phong chìm, để tìm vợ, tìm con, trong
đó có đứa con trai mà ông chưa biết mặt. Vậy mà chú Sáu không quên dặn: không
được cho thằng Dũng và con Dân biết tin này.
Thời gian má Kim Anh và hai em hy sinh, ở trường Thiếu sinh
quân của chúng tôi ngoài Bắc, ngoài việc học tập văn hóa, Dũng và bạn bè còn
được học quân sự, làm quen với súng trường CKC và tiểu liên AK. Thỉnh thoảng ,
Võ Dũng nhận được thư ba nhưng chỉ có vài chữ thông báo: Má và 2 em con vẫn
khỏe. Đầu năm 1967, chiến tranh phá hoại ác liệt hơn, nhà trường được sơ tán
sang Quế Lâm, Trung Quốc. Xa má đã 7 năm
mà không có một lá thư của má, với sự nhạy cảm của chàng trai 16, Võ Dũng cảm
nhận được rằng chắc chắn đã có điều không lành xảy ra. Trong Nam, mũi tên hòn
đạn có chừa ai… Dũng gửi thư hỏi thăm ba, không thấy ba trả lời về vụ ấy. Vậy
là Dũng bỏ học, nhiều lần lên gặp Chính ủy Bùi Khắc Quỳnh, nằng nặc xin về
nước: “Cháu biết các chú giấu cháu tin má đã hy sinh. Giờ cháu chẳng còn thiết
học hành. Các chú phải cho cháu về nước chiến đấu, trả thù cho má”. Biết không
thể giấu mãi, nhà trường đành phải cho Dũng biết toàn bộ sự thật và cho Dũng về
nước theo nguyện vọng của mình.
Tháng 3/1968, rời Quế Lâm về nước, bạn tôi được vào rèn luyện
tại Trường Quân chính Quân khu Tả ngạn, đóng ở Hải Dương. Nào tập hành quân
đường dài với ba lô đựng gạch nặng vài chục kí trên vai; nào tập xạ kích AK,
CKC, ném lựu đạn, đặt mìn; nào đào hào,
đào tang xê… Với chàng trai vừa qua tuổi thiếu niên, chỉ quen ăn học thì như
vậy quá là gian khó, vất vả; nhưng Dũng không ngại khó, lầm lũi rèn luyện,
chẳng hề kêu ca. “Nợ nước, thù nhà đã giục tao hành động như vậy. Chỉ có như
thế mới có thể đủ bản lĩnh, sức lực vào chiến trường”, sau này Võ Dũng đã tâm
sự với Nguyễn Đức Dũng (bạn cùng đi rèn luyện) như vậy.
Ban Thống nhất Trung ương liên tục cử những đoàn cán bộ dân
chính vào Nam công tác. Tháng 8/1969, Dũng lên tập trung ở Hòa Bình và được
ghép đoàn. Nghe tin Dũng sắp đi, dì Bảy Huệ, cô Tư Duy Liên và em Hiếu Dân đã
lên thăm. Ai cũng lo vì Dũng còn quá trẻ, khi vào Nam nơi đang có chiến tranh,
gần với cái chết, sẽ sống ra sao; nhất là ngày đi học Dũng nghịch ngợm quá.
Nhưng Võ Dũng cười và hứa một câu xanh rờn: “Dì và cô yên tâm đi, con quyết sẽ
trả thù cho má và 2 em. Lần này con đi “một - xanh cỏ, hai - đỏ ngực”! Dũng đã
sống đúng với lời hứa đó….
(Còn tiếp...).
Đã đọc đi đọc lại mấy lần nhưng lần nào cũng súc động, cảm phục xen lẫn tự hào! Anh thật súng đáng con ba Kiệt!
Trả lờiXóaĐọc bài viết về Võ Dũng của các bạn, TP thực sự xúc động! Những kỉ niệm thời niên thiếu chợt ùa về. Niên học 1963-1964, TP và Võ Dũng cùng học 1 lớp ở trường Nguyễn Trãi, đầu phố Cửa Bắc, khu Ba Đình Hà Nội. Ngày nay, ngôi trường này mang tên trường THPT Phan Đình Phùng. Tại đây, Võ Dũng đã vinh dự được kết nạp vào Đội thiếu niên Tiền phong HCM. Buổi lễ kết nạp thật ấn tượng. Đó là một buổi tối, sân trường được giăng đèn sáng trưng. Đây là buổi kết nạp tập thể. Dự lễ kết nạp có thầy Lương Hiệu trưởng, các thầy cô giáo và rất nhiều Đội viên. Khi được trao khăn quàng đỏ, Võ Dũng xúc động lắm. Bài hát Đội ca vang lên rồi bài hát "Chiếc khăn hồng" tiếp nối. Tiếng vỗ tay vang lên không dứt.
Trả lờiXóaTôi còn nhớ, hồi ấy, có phong trào Đội viên nhận bánh cam bán để lấy tiền ủng hộ cho đồng bào miền Nam ruột thịt. Các chú bộ đội trong bộ quân phục chỉnh tề đi bán sách trong phong trào này. Võ Dũng rất hăng hái,trong khi tôi và các bạn khác rất ngượng ngùng, nhất là các bạn nữ.
Nhân đây, tôi cũng xin bày tỏ tình cảm với Ngài Norodom Sihanouk quốc vương Campuchia. Chính từ đất nước của Ngài, chúng tôi đã dễ dàng đi ra miền Bắc XHCN.
Cảm ơn TP vời những lời tâm sự chân thành của người trong cuộc! Này, sao vào blog của câu không được? Còn dùng không?
Trả lờiXóaKiến Quốc! Blog YH! hay bị trục trặc nên mình tạm nghỉ. Khi viết trang blog mới mình sẽ báo cho cậu. Mình vẫn thường xuyên sinh hoạt cùng các bạn ở TRANG THƠ!
Trả lờiXóa