Kuron lấy làm hãnh diện trên phương diện nghề nghiệp khi cộng tác với chúng tôi, ông thường giúp chúng tôi trong những dự án nằm ngoài những khế ước ký kết. Vì ông quá lợi ích cho chúng tôi, nên tôi thu xếp cho ông có được một số điện thoại đặc biệt túc trực đêm ngày để những thông tin khẩn cấp được chuyển ngay sang Đông Đức. Là một thành viên của Cơ quan phản gián Tây Đức tại Cologne, ông tiếp cận những công tác kết nạp cao cấp. Thông thường, ông để những diễn tiến công tác tiếp tục bình thường và thông báo cho chúng tôi, vì ông và chúng tôi cả hai đều không có lợi gây sự nghi ngờ bằng cách phá vỡ những cố gắng kết nạp của Tây Đức.
Tuy nhiên, cũng có một biệt lệ. Mười năm nay chúng tôi có tại Bonn một điệp viên trong đảng Đoàn kết Dân chủ Thiên Chúa Giáo (CDU), đảng của Helmut Kohl. Đương sự là một bạn lâu đời của Kohl từ những bước chính trị chập chững của vị thủ tướng ở Rheinland và đã hoàn tất nhiều công việc cho công ty khổng lồ Flick, đại diện quyền lợi của công ty trong đảng Dân Chủ Thiên Chúa Giáo kể từ năm 1981 trở đi. Ông biết tất cả những uẩn khúc của những thương lượng giữa chính trị và kỹ nghệ tại Tây Đức và là một nguồn tin đáng tin cậy trong thông tin nội bộ chính trường Tây Đức cho chúng tôi.
Một đêm, Kuron, trong lúc làm việc trong văn phòng phản gián tại Cologne, nhận được tin qua một đồng nghiệp có một người tình nghi là gián điệp Đông Đức đã bị theo dõi đi đến họp mặt với một điệp viên chính trị nằm vùng của chúng tôi tại Bonn. Cả hai đều vào một căn phòng và bị phản gián Tây Đức theo sát. Họ chuẩn bị ập vào để bắt hai người. Kuron nhận định tức thì nếu hai người này bị bắt cùng một lượt, tôi sẽ mất đi một điềm chỉ viên chính trị quý giá tại Tây Đức. Do đó ông vội vàng báo qua số điện thoại khẩn cấp mã hóa “Người của ông bị theo dõi tại Andernachstrasse”. Chúng tôi vô cùng liều lĩnh điện thoại trực tiếp đến căn phòng và dùng mật hiệu báo động cho điệp viên tẩu thoát, bằng cách dùng một thổ ngữ báo đây là số điện thoại sai.
Chúng tôi mường tượng họ sẽ đổi ca canh gác về đêm vì đội canh gác đã được đổi một lần rồi. Nếu họ ra tay bắt, chỉ có thể vào lúc sáng sớm. Vì vậy hai người tắt đèn, vờ như đi ngủ và vừa quá 12 giờ đêm, điệp viên của chúng tôi chuồn đi qua ngã hầm đậu xe và lập tức trở về Đông Đức qua ngả Thụy Sĩ. Ngày hôm sau, người nằm vùng của chúng tôi rời căn phòng và cơ quan phản gián Tây Đức chạy ùa vào cao ốc nhưng người khách bí mật đã biệt tích và không thấy một tang chứng nào về hoạt động điệp báo của người khách này.
Người nằm vùng ở Tây Đức sau này bị lộ và bị kết án tù nhẹ. Xét cách đối xử nghiêm khắc với các điệp viên nằm vùng khác, tôi đinh ninh đâu đó trong hệ thống liên lạc chính trị nội bộ của Bonn, ông có người cầu bầu sự khoan dung nhân danh cá nhân ông.
Trong vòng sáu năm, Kuron đã làm những việc giá trị cho chúng tôi. Với sự trợ giúp vô tình của đứa con trai vị thành niên của ông, ông đã tìm ra phương cách thu những tín hiệu của máy vi tính lên trên cuộn băng ghi âm của máy điện thoại hồi âm với tốc độ cực nhanh. Đây là một cải tiến trong hệ thống cũ của chúng tôi, theo đó những tiếng bíp và xoáy của những chữ mã hóa có thể bị máy của phản gián Tây Đức rất dễ nhận chân. Với hệ thống của Kuron, âm thành được phóng nhanh, vì vậy những gì tai có thể nghe được chỉ là một biến thái nhanh chóng hoặc một tiếng bíp ngắn giống như đường giây có trở ngại kỹ thuật. Ở đầu dây bên kia, thông tin được tự động chuyển vào máy vi tính để thu lên băng ghi âm và có thể giải mã khi cuộn băng được quay lại nhanh hơn vận tốc gởi đi. Kuron đi xa hơn bằng cách chuyển thông tin trực tiếp vào đĩa của máy vi tính. Chuyên viên điều nghiên chỉ cần bỏ đĩa vào máy vi tính để kiểm soát an toàn cao độ và đọc tài liệu trên màn ảnh. Việc này rút ngắn nhiều thời gian đáng kể tiến trình giải mã.
Những thành quả của chúng tôi cho đến năm 1989 cho thấy sự vượt trội kỹ thuật cũng chỉ có hữu dụng giới hạn nếu những cơ cấu cơ bản của của cơ quan không được sử dụng đúng mức. Loại kỹ thuật chuyên môn này có thể mua được, nhưng tổ chức giỏi, kỷ luật chặt chẽ và bản năng bén nhạy không thể mua được trên thị trường. Ví dụ, lý ra các đồng nghiệp của Kuron phải thấy đương sự sống cao hơn mức lợi tức của mình, càng lúc càng nhiều hơn khi năm tháng trôi qua. Khác với Aldrich Ames, Kuron rất thận trọng trong việc tiêu dùng và bịa những câu chuyện ngụy trang. Ông rất chuyên nghiệp trong phong cách ông giữ liên lạc với chúng tôi và sống một cuộc sống kỷ luật. Hơn nữa, người phụ trách về thông quá an ninh trong cơ quan BfV (Nha Bảo Vệ Hiến Pháp) tại Cologne, ông Hansjoachim Tiedge, một người nghiện rượu có rất nhiều vấn đề gia đình và nợ bài bạc, không ở tư thế để chú ý.
*
Tôi chuẩn bị hành trang để lên đường nghỉ mát tại Hung Gia Lợi mùa hè 1985 thì chuông điện thoại reo. Cú điện thoại phát xuất từ vùng Magdeburg trên biên giới với Tây Đức. Một người tự nhận mình là Tabbert bất ngờ đến và yêu cầu được nói chuyện với một đại diện của cục tình báo hải ngoại. Qua Kuron chúng tôi được biết Tabbert chính là mã danh của Tiedge, nên tôi ra lệnh đưa y qua Bá Linh sớm chừng nào tốt chừng ấy và không hỏi gì thêm. Chợt nhớ vệ binh biên giới có chiều hướng không tiếp đón niềm nở những du khách sang Đông Đức, tôi nói tiếp là phải cho y bia và thức ăn. Karl-Christoph Grossmann, người đã thành công tiếp đón Kuron lần đầu tiên và Cục 9 của đương sự đã xâm nhập phản gián Tây Đức, được lệnh đón y tại ngã tư xa lộ trên đường đến Bá Linh để bảo đảm an ninh chặt chẽ khi đi qua thủ đô.
Ngay từ ban đầu tôi biết đây là một mẻ lớn và Tây Đức rất muốn thu hồi viên chức an ninh then chốt này về, vì có lẽ đương sự đào tẩu trong một lúc ngẫu hứng. Đương sự được đưa vào nhà an toan tại Prenden, ở vùng quê ngoài Đông Bá Linh. Nơi trú ngụ của tôi ở vùng quê cũng nằm ở đây, và chỉ cách đó vài trăm thước là hầm boong-ke do bộ chính trị xây cất để không chết cháy nếu chẳng may Hoa Kỳ thả bom nguyên tử. Vùng này vì vậy được canh gác rất cẩn mật. Nguy cơ anh bạn mới của chúng tôi bị phía bên kia bắt cóc trở về xem ra rất khó xảy ra.
Tiedge muốn gặp tôi trực tiếp, nhưng tôi từ chối. Tôi đã chuẩn bị về hưu và , vì biết đây là một trường hợp đặc biệt có nhiều hệ lụy, tôi nghĩ tốt hơn hết là giao lại cho người kế nghiệp tôi, Werner Grossmann. Tôi lý luận Tiedge cần tín nhiệm tuyệt đối với những người y gặp đầu tiên tại Đông Đức; như vậy chúng tôi tránh thay đổi cán bộ điều khiển giữa đường.
Người này ở trong tình trạng thảm não khi anh được thẩm vấn. Vì vóc dáng bê tha và cặp mắt đỏ ngầu của y không ai nghi rằng y là một thành viên cao cấp của cơ quan an ninh của Tây Đức. Để cho chắc ăn, chúng tôi yêu cầu y trình giấy phép an ninh, chứng nhận y là một nhân viên của Văn Phòng Bảo Vệ Hiến Pháp (BfV) tại Cologne. Đương sự tự xưng là Hansjoachim Tiedge và, với giọng cao và mệt mỏi giải thích : “Tôi tới và ở lại đây. Quý vị là cơ hội cuối cùng của tôi.” Tôi điện thoại cho Mielke báo tin vui. Ngay cả với việc đào thoát có giá trị cao này, Mielke thông thường chỉ nghĩ đến chức vị của mình và than phiền là trưởng ban an ninh tại Magdeburg đã không thông báo ngay cho đương sự và gằn giọng nói người Bá Linh “tất cả những món hàng mất và tìm lại được phải giao cho tôi trước tiên”.
Hansjoachim Tiedge
Tiedge xác nhân những gì chúng tôi biết qua Kuron về đời tư thảm não của y. Y là một tay say mê cờ bạc và rượu chè. Vợ của ý chết trong một tại nạn xảy ra trong nhà sau khi hai người say rượu đánh nhau. Người ta điều tra xem có án mạng không, nhưng rồi toà tuyên phán đây là một cái chết vì tai nạn. Y có những đứa con bất kham không bao giờ tha thứ đương sự vì cái chết của mẹ chúng và y gặp khó khăn trong công việc, vì đời sống cá nhân xô bồ của y đã khiến y bị kỷ luật. Bây giờ y biết lý do duy nhất y còn ở lại cơ quan phản gián là để giữ kín những hiểu biết của y và cấp trên có thể kiểm soát y. Tất cả nhân cách của y, y nói, đã bị phá hủy. “Nếu một trường hợp như tôi được đệ trình để nghiên cứu,” đương sự suy nghĩ với một sự lương thiện đáng nể, “tôi sẽ phê đuổi y ra khỏi cơ quan tức khắc.”
Tôi trạnh nghĩ, sau này khi đọc bản báo cao, cấp lãnh đạo của một quan điều tra an ninh Tây Đức, một chức vụ đòi hỏi một cuộc sống thanh đạm, lại có một lối sống thích hợp với một nhân vật ủy mị trong tuồng kịch. Chúng tôi thấy một người đã tụt xuống hỏa ngục tâm lý đến độ chỉ còn hai lối thoát, tự vẫn hoặc đào tẩu. “Tôi không có can đảm để tự vẫn,” y nói với cán bộ thẩm vấn.
Một câu hỏi nhiều người thắc mắc Tiedge có phải là điệp viên của chúng tôi trước khi đào tẩu. Lần đầu tiên, tôi có thể khẳng định ông không phải là người của chúng tôi. Việc Tiedge chạy sang Đông Đức làm cho tôi và tất cả mọi người đều ngạc nhiên. Tôi nghi ngờ là đương sự trôi dạt về phía chúng tôi vì tình hình càng lúc càng tệ hại đối với y tại Cologne, nhưng chúng tôi không tìm cách liên lạc với y. Y tìm đến chúng tôi vào một đêm y nhảy lên xe hỏa và sang Đông Đức. Đương sự là kẻ đào thoát ngay thẳng một cách bất bình thường. Trên thực tế y là người duy nhất. Tôi chưa bao giờ gặp một ai tự mô tả mình là kẻ đào tẩu một cách thẳng thắn như vậy. Đương sự không tìm cách biện minh quyết định của mình qua những câu chuyện thay đổi ý thức hệ. Đương sự nói: “Tình hình của tôi ở nước Đức thứ hai khá hơn nước thứ nhất”.
Quả nhiên là đúng. Chúng tôi bỏ thời giờ, tiền bạc và công sức để xây dựng lại con người này từ một anh say rượu khố rách lúc anh nhảy qua biên giới. Với đôi mắt lợt lạt thất thần và quầng đen, đương sự trông giống như một con gấu panda khi y đến nhà an toàn. Chúng tôi cung cấp cho y một y tá, một bác sĩ và một huấn luyện viện thể lực. Họ giúp đương sự ngừng uống rượu và mất đi 30 cân trong một tháng. Thiếu rượu và phải triệt để kiêng mỡ, Tiedge cần được bảo bọc ở một khía cạnh nào đó và chúng tôi phát hiện y rất ham muốn nhục dục. Chúng tôi có đàn bà sẵn cho y, họ là nhưng đảng viên làm việc trong ngành an ninh trong vùng Postdam; họ được mời làm bạn với một kẻ đào tẩu và bắt đầu đi lại với y. Vì bị căng thẳng tinh thần trong lúc thẩm vấn, phần lớn đàn ông chín muồi để tỉm an nủi nơi người đàn bà. Chúng tôi lựa chọn những phụ nữ sẵn sàng chấp nhận ăn nằm với những người này.
Họ không phải là gái mãi dâm, nhưng là những phụ nữ rất thực tế, đảng viên và trung thành với đất nước, sẵn sàng làm việc này để đổi lấy cái chúng tôi gọi là lòng biết ơn của nhà nước, có nghĩa là một căn phòng tươm tất hoặc là đứng đầu danh sách chờ đợi nhà nước cung cấp xe hơi. Dù sao đi nữa, thí sinh đầu tiên của chúng tôi không chịu đựng được Tiedge. Chúng tôi kiếm một thí sinh khác, một cô giáo, và cô đã hoàn thành sứ mạng của mình, và làm cho chúng tôi nhẹ nhõm. Tiedge là một loại đàn ông đặc biệt chẳng có gì hấp dẫn và tôi suy nghĩ cô phải là một người rất yêu nước. Nhưng ngay cả những chuyện đồi bại nhất cũng có kết quả đáng khích lệ hơn chúng tôi mong đợi. Sau này hai người cưới nhau và đương lúc tôi đang viết họ vẫn còn ở với nhau.
Tiedge có trí nhớ như máy vi tính về tên tuổi và các mối liên lạc, nhờ đó điền vào chỗ trống trong hồ sơ của chúng tôi, mặc dù không nhiều như y nghĩ, bởi vì y không biết Kuron làm việc cho chúng tôi.
Việc báo giới tiết lộ sự bất hợp của Tiedge đối với cơ quan phản gián, dẫn đến sự đào thoát của y phản ánh hình ảnh xấu xa của cơ quan này. Thêm vào đó, người vừa được bổ nhiệm chức vụ giám đốc Tình Báo Liên Bang, Heribert Hellenbroich, một người bạn cũ và cấp trên của Tiedge trong cơ quan phản gián, bị buộc phải từ chức vì thiếu khả năng. Chúng vui mừng nhìn sự xáo trộn này, mặc dù sau này tôi biết Hellenboich là một trong những cấp lãnh đạo lương thiện và đáng kinh của cơ quan tình báo Tây Đức.
Tôi có phần nào thiện cảm với tình thế khó xử của ông vì không những ông có một mà hai tay nằm vùng đào hầm phá sập sự nghiệp của ông.
Sụ hiện diện của Tiedge ở Đông Đức tạo cớ cho chúng tôi để bắt Horst và Gerlinde Garau, những người Kuron đã thông báo cho chúng tôi nhưng chúng tôi chưa dám bắt vì làm như vậy chúng tôi sẽ tiết lộ chúng tôi có người nằm vùng bên đó. Theo sự hiểu biết của phản gián Tây Đức, họ đã bị Tiedge phản bội. Horst và Gerda Garau bị bắt và người đàn ông bị kết án tù chung thân vào tháng Chạp 1986. Garau được thả ra sau bốn tháng và cảnh cáo không được nói về trường hợp bắt giam của mình. Chồng của bà ta chết vào giữa năm 1988 tại trại tù Bautzen. Gerlinde vẫn cho rằng tôi đã hạ lệnh giết ông chồng.
Thực ra không phải như vậy. Horst Garau là một người nhạy cảm và nhiều danh dự đặc biệt không thích hợp với những điều kiện khắc nghiệt của trại tù. Tôi chắc chắn y đã tự tử trong tù sau khi y biết rõ y không nằm trong danh sách các thí sinh gián điệp được trao đổi. Mặc dù y bị xúc động mạnh vì trường hợp của mình – y bị phản bội hai lần bởi những người y tín nhiệm trong tình báo Tây Đức – theo tôi y là một gián điệp lợi hại. Y không đáng chết, nhưng tội y phải vào tù.
Ngày 5 tháng Mười năm 1990, hai ngày sau khi nước Đức thống nhất, Kuron chay qua Đông Bá Linh để bàn thảo về tương lai của đương sự với các sĩ quan cao cấp của tôi. Lòng phản trác xuất hiện vô số kể khi thiên hạ đổ sô tìm cách cứu mạng. Một trong những sĩ quan ưu tú của tôi đã sa ngã trước lời mời mọc giúp Tây Đức truy lùng những điệp viên của chúng tôi. Đương sự là Đại Tá Karl Christoph Grossmann, chính sĩ quan này đã giúp kết nạp Kuron và tiếp đón Tiedge. Cái vòng tố giác đã hết chu kỳ của nó. Cũng người này đã được tín nhiệm để bảo vệ hai thành viện cao cấp chúng tôi kết nạp từ phản gián Tây Đức đã chính mình trở thành kẻ phản bội. Tôi nhìn những sự cố diễn ra với chút cay đắng trước sự oái oăm này.
Grossmann phản bội có nghĩa là sự nghiệp của Kuron cũng như của rất nhiều nhân viên của chúng tôi coi như chấm dứt. Kuron cũng biết điều này. Không nói một lời, y lấy lần cuối cùng sổ tiền mười ngàn Đức Mã từ một sĩ quan cao cấp và chấp nhận lời mời duy nhất mà cơ quan tình báo hải ngoại Đông Đức có thể đề nghị để bảo vệ những điệp viên của mình đang bị đe dọa, lời giới thiệu đến cơ quan tình báo KGB và cơ hội để đào thoát sang Moscow với sự trợ giúp của tình báo Xô Viết.
Vì phải lo cải thiện mối liên hệ với chính quyền Tây Đức, Liên Bang Xô Viết giúp chúng tôi rất ít. Sau khi Werner Grossmann, người kế thừa chức vụ giám đốc tình báo hải ngoại của tôi, năn nỉ dông dài và áp lực trực tiếp, cơ quan KGB chấp thuận cho tất cả các nhân viên điệp báo ưu tú của chúng tôi nếu họ muốn được tị nạn bên họ. Ban đầu Kuron chấp nhận nhưng sau đó lại thay đổi ý kiến, vì y sợ rằng y sẽ không bao giờ ra khỏi được Liên Bang Xô Viết một khi anh đã vào.
Với lý lẽ trở về Cologne để bàn thảo với vợ về lời đề nghị này, Kuron điện thoại cho ban kiểm tra an ninh của cơ quan phản gián Tây Đức và giải thích y cần bàn một chuyện mà y tế nhị cho đó là một vấn đề. Y định chơi ván bài cuối cùng. Y nói với cấp chỉ huy là y đã được tình báo KGB tiếp xúc và y chấp nhận làm gián điệp nhị trùng cho Tây Đức. Y đề nghị kể lại cho phản gián Tây Đức những gì cơ quan Xô Viết tìm cách khám phá – giống như việc y vẫn thường làm cho phía bên kia từ bao lâu nay. Một kẻ đào phản, bị áp lực như Kuron đang phải gánh chịu và phải có thay đổi tâm lý lớn để nhảy sang phía bên kia, thường có khả năng trở cở thêm lần nữa. Đây là một thủ đoạn xảo quyệt vì bị áp lực, nhưng cơ may của Kuron đã chấm dứt.
Ngay lúc y bước vào văn phòng tại Cologne, nơi y đã xây dựng sự nghiệp, y bị bắt tức khắc và bị thẩm vấn. Đêm hôm đó, tên gián điệp khôn ngoan nhất Đông và Tây Đức giơ tay đầu hàng và thú nhận, và sau này y cũng nhận tội tại tòa án, y thực sự chỉ phục vụ cho một bên, cho cơ quan Tình Báo Hải Ngoại Đông Đức. Mặc dù có những chứng liệu của Karl-Christoph Grossmann từ trong nội bộ của cơ quan chúng tôi, chính quyền Tây Đức phải mất một năm rưỡi để gom góp những tang chứng kết tội Kuron, vì sinh hoạt điệp báo của y quá rộng rãi. Cuối cùng năm 1992 y bị kết án 12 năm tù giam tại Rauschied. Y tỏ ra bất khuất cho đến cùng. Y bình luận về số phần của y: “ So với cuộc đợi đáng thương của một số người luôn phải nhìn văn phòng ảm đạm của mình suốt ngày, tôi đã sống được năm cuộc đời”.
Tiedge chạy trốn sang Liên Bang Xô Viết không bao lâu sau ngày thống nhất và sống trong một tiện nghi đơn sơ, do KGB đỡ đầu trước tiên và sau đó nhiều cơ quan có tên khác nhưng căn bản vẫn là cơ quan kế nghiệp tương tự. Có lời đồn y vẫn tiếp tục làm việc cho họ để đánh phá Tây phương, nhưng tôi không nghĩ như vậy. Sau bao nhiêu chuyển đổi bất ngờ trong những năm gần đây của lịch sử gián điệp tại Đức, tôi biết nhờ thông tin với bạn bè trong các cơ quan cũ và mới của Moscow tình báo Nga có cái nhìn nghi ngại về cơ quan tình báo của cả hai nước Đức. Khi Chiến Tranh Lạnh kết thúc, họ đi đến kết luận, mà cho đến này họ vẫn giữ, là không thể nào đoan quyết biết được một điệp viên Đức làm việc cho phía bên nào.
“...Khi chiến dịch các tướng đạt nhiều thành quả, các Cục ở Đông Đức vội vã nhận vơ công lao thuộc về họ. Phiền lòng cho chúng tối nhất chính là em rể của Erich Honecker, Manfred Feist, một anh công chức vô năng, nói với lãnh tụ của Đông Đức tất cả việc này là do sáng kiến của anh ta...”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Nếu bạn không đăng kí mà muốn có comment thì sau khi viết nhận xét (nhớ đọc lại 1 lượt) và điền tên (hoặc nickname) của mình, rồi click vào mục "Ẩn danh" ("Chọn 1 nhận dang" ở phía dưới). Sau đó gửi nhận xét.