Trang

Thứ Sáu, 22 tháng 5, 2015

TRƯỜNG VĂN HÓA QUÂN ĐỘI, THUỞ “HÀN VI”[1] - Nhà thơ Đỗ Trung Lai[2]


Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ rõ ba loại “giặc” trong thời “Cách mạng - Kháng chiến - Kiến quốc” là “Giặc đói”, “Giặc dốt”, “Giặc ngoại xâm”.
Đói thì dễ dốt. Dốt thì dễ đói. Đói và dốt thì dễ bị/khó chống ngoại xâm. Ngoại xâm lại làm ta càng đói, dốt... Cái vòng luẩn quẩn ấy, nhất định phải đập tan. Ba thứ “giặc” ấy, nhất định phải diệt.
Lập nước với một dân tộc có hơn 90% số người mù chữ, “Giặc dốt” vừa là nguy cơ trước mắt vừa là nguy cơ lâu dài. Vì thế, ngay sau khi độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố, lấy chữ Quốc ngữ làm chữ viết chính thức của chế độ, phát động phong trào “Xóa nạn mù chữ” và lập Nha Bình dân Học vụ, lo việc dạy học để toàn dân diệt “Giặc dốt”, tính kế lâu dài cho “Nước mạnh”.


Xây dựng lực lượng vũ trang với đội quân sinh ra từ một dân tộc bị Thực dân - Phong kiến bỏ cho thất học như vậy, ngày 18/5/1955, tức là một năm sau ngày “Giải phóng Điện Biên”, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Trường VHQĐ, để toàn quân diệt “Giặc dốt”, tính kế lâu dài cho “Binh cường”.
Trường VHQĐ ra đời, được mang phiên hiệu quân sự D126, ban đầu đóng quân tại sân bay Kiến An, Hải Phòng, trên vùng đất thuộc “Khu vực 300 ngày”, ngay khi quân Pháp vừa rút hết khỏi miền Bắc.
Đồng chí Lê Quang Hoà, Cục trưởng cục Văn hoá, được giao làm Hiệu trưởng kiêm Chính uỷ đầu tiên của trường (sau này là Thượng tướng, thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tổng Thanh tra QĐ).
Khi ấy, cán bộ và chiến sĩ của quân đội ta, chủ yếu mới có trình độ văn hóa cấp 1, cấp 2 hoặc mới biết đọc, biết viết qua Bình dân Học vụ, thậm chí nhiều người còn mù chữ! Làm sao khác được, khi mà trước đó, cả tỉnh Thanh Hóa rộng lớn như vậy, lại là “vùng tự do” trong kháng chiến chống Pháp, mà mới chỉ có một trường cấp 2 là trường Đào Duy Từ và một trường cấp 3 là trường Lam Sơn? Nhiệm vụ nâng cao văn hóa cho cán bộ - chiến sỹ ta thời ấy là vô cùng khẩn thiết.
Những học viên đầu tiên về trường là những cán bộ quân đội sơ cấp và chiến sĩ ưu tú, đòi hỏi phải tốt nghiệp tiểu học trở lên; những cán bộ trung- cao cấp thì có thể đang học dở tiểu học cũng được nhập học.
 Bộ Giáo dục đã tăng cường một đoàn cán bộ biệt phái khoảng 30 người. Đoàn gồm các sinh viên được chọn từ các trường đại học lúc ấy, đa phần được học trong kháng chiến ở Khu 4, có 2 giáo viên cấp 1 từ vùng tự do Khu 5. Đoàn do đồng chí Lê Ngọc Du dẫn đầu. Đây là lực lượng giáo viên chính. Trong số họ, giáo viên  Nguyễn Đăng Phất và giáo viên Nguyễn Minh Chương sau này đều là TS Toán học. TS Nguyễn Đăng Phất từng là Chủ nhiệm Khoa Toán, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội I.
Để bổ sung cho đội ngũ giáo viên, nhà trường quyết định rút một số học viên đợt đầu, vốn đang học dở hoặc đã hết cấp 3, lên dạy cấp 1 và cấp 2. Giáo viên Trung văn là một số anh chị em đi học ở Trung Quốc trước đó, được điều về, trong số này, có cô Hồ Mộ La, sau này là một ca sỹ nổi tiếng. Sau nữa, là các cô giáo Lý Thị Ngần, Nguyễn Thị Tâm...
Về tổ chức, ngoài Khối Hiệu bộ, trường tổ chức học viên thành 2 khối, một là Khối Cán bộ sơ cấp và chiến sĩ, hai là Khối Cán bộ trung - cao cấp. Học viên được chia thành các đại đội, trung đội.
Chương trình giảng dạy là chương trình bổ túc văn hóa: cấp 1 (toán và văn); cấp 2, cấp 3 (toán, lý, hoá).
Gần 3 năm sau, đã có hơn ngàn học viên tốt nghiệp và được cử đi học ở các trường quân sự trong và ngoài nước.
Trong đợt đầu ấy, có những học viên sau này rất thành đạt, từng giữ các trọng trách của Đảng, Nhà nước và Quân đội ta. Đó là nguyên Chủ tịch nước - Đại tướng Lê Đức Anh; các vị tướng Lê Quảng Ba, Đàm Quang Trung, Bằng Giang, Bùi Phùng, Đào Đình Luyện, Trần Hanh ... Riêng đồng chí  Phùng Thế Tài, khi học ở trường, một mình một lớp, một giáo viên. Người giáo viên ấy là đồng chí Lưu Đình Miện, vốn là học sinh cấp 3 Lam Sơn, được đưa lên tăng cường làm giáo viên (đồng chí Miện vừa mất năm ngoái - 2014, tại 32 Lý Nam Đế, Hà Nội, hưởng thọ 80 tuổi).
Năm 1958, Trường VHQD9 rời Kiến An, về Lạng Sơn, đóng trong Thành cổ Lạng Sơn, thuộc phường Chi lăng, nằm ở gần ga xe lửa, bờ nam sông Kỳ Cùng. Doanh trại là là một khu trại lính từ thời Pháp mới được cải tạo lại.
Trước đòi hỏi nguồn nhân lực to lớn cho xây dựng quân đội chính quy hiện đại, yêu cầu dạy và học ngày càng cao. Đội ngũ giáo viên của trường không ngừng được tăng cường cả về số và chất lượng, được tổ chức thành 2 khối: Khối Bổ túc văn hóa và Khối Ngoại ngữ, còn các học viên thi được phân theo các đại đội, trung đội.
Từ năm 1960, nhà trường tổ chức thêm Tiểu đoàn 1 học viên, gồm 3 đại đội TSQ và 2 đại đội ngoại ngữ. Hệ TSQ gồm gần 300 học viên- hầu hết là con em cán bộ và gia đình thành phần cơ bản, đã tốt nghiệp cấp 2 phổ thông, có độ tuổi từ 15 đến 17. TSQ được học văn hoá theo chương trình bổ túc, song song với chương trình quân sự huấn luyện tân binh. Sau 2 năm học tập và rèn luyện, hè năm 1962, khoá TSQ đầu tiên tốt nghiệp, họ đã trở thành anh bộ đội thực thụ và 100% được tiếp tục theo học các trường sỹ quan trong và ngoài nước... Trong số những học viên Hệ TSQ và Tiểu đoàn 1, sau này có nhiều người thành đạt như Thiếu tướng Tống Kiên - nguyên Phó chủ nhiệm Tổng cục CNQP; Anh hùng phi công Vũ Xuân Thiều đã bắn rơi pháo đài bay B52; Bộ trưởng Đoàn Mạnh Giao - nguyên Chánh Văn phòng Chính phủ; Thiếu tướng Nguyễn Chí Liêm - nguyên Tư lệnh Binh chủng Thông tin liên lạc...
Năm 1965, cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ đã trùm lên khắp miền Bắc. Ở miền Nam, cuộc chiến cũng ngày càng mở rộng và ác liệt. Để chuẩn bị lực lượng hậu bị lâu dài cho quân đội, Quân uỷ và Bộ Quốc phòng giao cho Trường VHQĐ tạm dừng nhiệm vụ dạy bổ túc văn hoá để tổ chức đào tạo TSQ mà đối tượng là con em những cán bộ quân đội đang trực tiếp tham gia chiến đấu, công tác ở các chiến trường và con em các gia đình có công với nước. Việc tổ chức một trường TSQ nhằm tạo điều kiện cho con em họ được học văn hoá và rèn luyện trong môi trường quân đội để trở thành lực lượng hậu bị cho quân đội sau này, mặt khác cũng là nhằm giảm bớt một phần gánh nặng gia đình, để họ yên tâm dồn hết trí tuệ, sức lực cho công cuộc kháng chiến.
Thực hiện nhiệm vụ đó, đầu năm 1965, Trường VHQĐ bắt đầu tuyển sinh. Tháng 9 năm ấy, tại Mỹ Yên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, nhà trường tổ chức khai giảng năm học mới với gần 800 học viên là những học sinh phổ thông, từ lớp 5 đến lớp 9. Ngày khai giảng cũng chính là ngày giỗ đầu AHLS Nguyễn Văn Trỗi và nhà trường đã vinh dự được mang tên Trường VHQĐ Nguyễn Văn Trỗi (cũng còn được gọi là Trường TSQ Nguyễn Văn Trỗi).
Trong chuỗi lịch sử 35 năm hoạt động của Trường VHQĐ, riêng 5 năm (từ 1965 đến 1970) Trường TSQ Nguyễn Văn Trỗi đã cho “ra lò” 8 khoá học với 1.200 học viên, hầu hết đều trở thành các quân nhân. Nhiều người sau này thành đạt, đã và đang giữ những trọng trách của nhà nước và quân đội. Đó là GS-TS Nguyễn Thiện Nhân, Ủy viên BCT, hiện là Chủ tịch Ủy ban TW MTTQ Việt Nam; là Trung tướng Nguyễn Chiến - nguyên Trưởng Ban Cơ yếu Chính phủ; là nguyên Thứ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin và Du lịch Trần Chiến Thắng, Thiếu tướng Nguyễn Quang Bắc - TS, nguyên Giám đốc Trung tâm KHCN Bộ Quốc phòng ; Trung tướng - TS Trần Duy Anh - nguyên Giám đốc viện Quân y 108; Thiếu tướng - TS Nguyễn Phục Quốc, nguyên Giám đốc viện Quân y 175; Thiếu tướng Bùi Vinh - nguyên Cục trưởng Cục Kế hoạch Đầu tư Bộ Quốc phòng, nguyên Tư lệnh Binh đoàn 11; Thiếu tướng Phùng Thế Quảng, nguyên Phó Tư lệnh Quân khu 7; là NSƯT Dương Minh Đức - nguyên Phó Giám đốc Trường Đại học VHNT QĐ; là AHLS Huỳnh Kim Trung, v.v... Trường TSQ Nguyễn Văn Trỗi có một học sinh đặc biệt, đó là người con trai của Hoàng thân Xu-pha-nu-vông, anh Xu-phả-xay Xu-pha-nu-vông. Anh Xu-phả-xay vốn học ở Liên Xô, là một thủ thành bóng đá thiếu niên xuất sắc. Hoàng thân muốn con về học ở Việt Nam. Ở trường Nguyễn Văn Trỗi, anh có tên Việt Nam là Thắng và là một thủ gôn xuất sắc của trường. 
 Năm 1970, sau 5 năm đào tạo TSQ, Trường VHQĐ được tổ chức lại và trở về đóng quân ở vị trí cũ tại Lạng Sơn. Lúc này, trường tổ chức dạy và học theo 2 khối như từ năm 1964 về trước, là Khối Bổ túc văn hóa và Khối Ngoại ngữ, đồng thời có thêm Khối Luyện thi đại học.
Khối Bổ túc dạy học viên đến hết cấp 3, để học viên có thể đi học chỉ huy trung - cao cấp. Nếu ai đi nước ngoài, thì lại sang học thêm ở Khối Ngoại ngữ. Hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ, Anh hùng LLVT, Chiến sĩ Thi đua toàn quân đã theo học tại đây. Trong số họ có Nguyễn Quốc Trị, La Văn Cầu, Phùng Văn Khầu, Chu Văn Mùi, Bùi Đình Cư, Trịnh Thị Cửu, v.v... Riêng nữ Anh hùng Tạ Thị Kiều, được bố trí cho học một mình một lớp với ba giáo viên, một y sĩ.
Sau này còn có riêng một tiểu đoàn gồm các Anh hùng và Dũng sĩ diệt Mỹ - Ngụy, từ chiến trường miền Nam ra theo học.
Hàng trăm trong số hàng ngàn học viên Khối Bổ túc (tiểu đoàn 3), đã qua Học viện Quốc phòng, Học viện Chính trị trong và ngoài nước để trở thành những người lãnh đạo - chỉ huy chủ chốt của quân đội ta: Đại tướng Lê Văn Dũng - nguyên Bí thư TW Đảng, nguyên Chủ nhiệm TCCT; Thượng tướng Nguyễn Khắc Nghiên – AHLLVT, nguyên Ủy viên BCHTW Đảng, nguyên Tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam; Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu - Anh hùng LLVT, nguyên Ủy viên BCHTW Đảng, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng; Trung tướng Đào Trọng Lịch – nguyên Ủy viên BCHTW Đảng, nguyên Tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam; Trung tướng Ma Thanh Toàn – AHLLVT, nguyên Ủy viên BCHTW Đảng, nguyên Tư lệnh QK2; Thượng tướng Nguyễn Văn Được - AHLLVT, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, nay là Chủ tịch Hội CCB Việt Nam; Thượng tướng Nguyễn Thế Trị - AHLLVT, nguyên Tư lệnh QK3, nguyên Giám đốc Học viện Quốc phòng; Thượng tướng Võ Tiến Trung - AHLLVT, Ủy viên BCHTW Đảng, hiện là Giám đốc Học viện Quốc phòng; Trung tướng Phạm Xuân Thệ - AHLLVT, nguyên Tư lệnh QK1; Trung tướng Lê Văn Hân, nguyên Phó Chủ nhiệm TCCT; Trung tướng Nguyễn Hữu Khảm, nguyên Phó Tổng tham mưu trưởng QĐND Việt Nam; Trung tướng Nguyễn Như Hoạt – AHLLVT, nguyên Giám đốc Học viện Quốc phòng; Trung tướng Đoàn Sinh Hưởng – AHLLVT, nguyên Tư lệnh Binh chủng Tăng - Thiết giáp, nguyên Tư lệnh QK4; Trung tướng Nguyễn Văn Lân - nguyên Tư lệnh QK3; Trung tướng Nguyễn Văn Phiệt – AHLLVT, nguyên Chính ủy Quân chủng PK-KQ; Trung tướng Lê Xuân Tấu – AHLLVT, nguyên Tư lệnh Binh chủng Tăng - Thiết giáp; Trung tướng – Phó Đô đốc Nguyễn Văn Tình - AHLLVT, nguyên Chính ủy Quân chủng Hải quân; Trung tướng Dương Công Sửu – AHLLVT, nguyên Phó Tư lệnh QK1; Thiếu tướng Mai Năng - AHLLVT, nguyên Tư lệnh Binh chủng Đặc công; Thiếu tướng Vũ Bá Đăng - nguyên Tư lệnh Binh chủng Tăng - Thiết giáp; Thiếu tướng Trần Danh Bích - nguyên Cục trưởng Cục Cán bộ - TCCT; Thiếu tướng Phạm Ngọc Phan - nguyên Cục trưởng Cục Tổ chức - TCCT; Thiếu tướng Hoàng Anh Tuấn - nguyên Chính ủy TCKT, v.v...
Khối Ngoại ngữ (D4), chuyên bồi dưỡng tiếng nước ngoài cho học viên ta đi học ở các nước bạn. Tại đây, học viên được học tiếng Trung, tiếng Nga, tiếng Anh và tiếng Hung-ga-ri. Rất nhiều cán bộ chỉ huy cao cấp và nhiều AHLLVT ta, như Trần Hanh, Phạm Ngọc Lan, Nguyễn Văn Cốc, Phạm Tuân, Nguyễn Văn Lanh, Nguyễn Đức Soát, Phạm Trương Uy... đều đã qua chương trình ngoại ngữ ở đây. Phi công vũ trụ dự bị Bùi Thanh Liêm cũng vậy.
Từ năm 1970, Bộ Đại học ra quy chế thi bắt buộc vào các trường đại học. Nhà trường đã tổ chức thêm Khối Luyện thi đại học gồm hai tiểu đoàn (D1 và D2), để bồi dưỡng văn hoá cho cán bộ - chiến sĩ ta có đủ kiến thức để dự thi vào các trường đại học từ khoá 1971 - 1972, như vào trường Đại học KTQS (nay là Học viện KTQS - khối A); Đại học Quân y (nay là Học viện Quân y - khối B) và một số trường đại học khác như Đại học Bách khoa, Tổng hợp Hà Nội... Từ đây, hàng ngàn học viên đã đến được các giảng đường đại học, trong và ngoài quân đội, trong và ngoài nước, nhiều người đã tốt nghiệp đại học và trên đại học. Tỷ lệ đỗ vào đại học của hai khối này thường xuyên đạt trên 90%, một tỷ lệ mà không một trường trung học phổ thông nào lúc bấy giờ đạt tới. Nếu biết rằng thời ấy, việc dạy và học chưa hề mắc bệnh “chạy theo thành tích”, thì kết quả ấy, dù nói một cách khiêm tốn, vẫn là một kỳ tích! Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh - Ủy viên BCHTW Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng hiện nay, là một trong số các học viên khối này.
Sau ngày giải phóng Miền nam, thống nhất đất nước, nhu cầu bồi dưỡng văn hoá cho các quân nhân tăng vọt nhằm đáp ứng mục tiêu xây dựng quân đội tiến lên chính quy hiện đại, củng cố quốc phòng và tái thiết đất nước sau chiến tranh, Bộ Quốc phòng đã tổ chức mở các trường văn hoá ở các quân khu, quân đoàn, quân-binh chủng, thì Trường VHQĐ được đổi tên thành Trường VH Bộ Quốc phòng,  vẫn đóng quân ở vị trí cũ trong Thành cổ Lạng Sơn.
Từ năm 1980, trường còn làm thêm nhiệm vụ dạy tiếng Việt cho học viên quân đội Lào và Cam-pu-chia, để họ có thể theo học các trường quân sự Việt Nam. Bây giờ, chắc nhiều cán bộ trung - cao cấp trong quân đội của Bạn vẫn còn nhớ, còn giữ mãi, mối tình hữu nghị “đặc biệt” ấy. Nhiều cán bộ - giáo viên của trường  cũng đã trở thành các  chuyên gia, xây dựng thành công hai trường văn hóa quân đội cho Lào và Cam-pu-chia như các đồng chí Nguyễn Xuân Bân, Đỗ Xuân Khoát, Mai Xuân Hiến, Bùi Cao Thưởng, v.v...
Đội ngũ giáo viên của trường, từ giữa những năm 60 của thế kỷ trước, đã được bổ sung thêm nhiều giáo viên trẻ, đầy nhiệt huyết và họ đều là những sinh viên ưu tú đã tốt nghiệp các trường đại học Sư phạm, Tổng hợp, Ngoại ngữ và nhiều người đã kinh qua các đơn vị chiến đấu. Đến năm 1975 tổng số giáo viên lúc này đã lên đến cả vài trăm.
Trong số những giáo viên của nhà trường, sau này, có người trở thành TS toán học như các anh: Bùi Hữu Nghị - Phó GS, Nhà giáo ưu tú, nguyên Trưởng Khoa Toán - Tin, Đại học Sư phạm Hà Nội I; Nguyễn Hải Bắc - nguyên chuyên viên Cục Hình sự, Bộ Quốc phòng; có người trở thành Thạc sỹ Toán học, đó là anh Trần Trí Kiệt - nguyên Hiệu trưởng Trường Phổ thông Trung học Trần Quốc Tuấn, Tổng cục II. Anh đã có mấy công trình nghiên cứu công bố tại Nga. Anh Vương Trí Nhàn, vốn là giáo viên văn, trở thành một nhà  lý luận - phê bình văn học nổi tiếng. Phó GS - TS Mỹ học, nhà lý luận - phê bình uy tín Đỗ Lai Thúy, vốn là một giáo viên Nga văn. Lại có người trở thành Nhà thơ - Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam như anh Vương Trọng, vốn là giáo viên toán và người viết bài này, vốn là giáo viên vật lý. Có những người trở thành nhà báo chuyên nghiệp như các anh Phạm Đình Trọng, Nguyễn Chi Phan, Nguyễn Dân Quyền.
Nhiều người trở thành những nhà lãnh đạo địa phương như các anh: Cao Văn Cường - nguyên Bí thư Tỉnh ủy Hưng Yên; Nguyễn Văn Nông - nguyên Chủ tịch UBND Thành phố Lạng Sơn; Nguyễn Văn Thịnh - nguyên Phó ban Tổ chức chính quyền tỉnh Lạng Sơn... Trưởng ban Cơ yếu Chính phủ hiện nay - Thiếu tướng Đặng Vũ Sơn - cũng từng là giáo viên toán trường ta.
Rất nhiều giáo viên khác đã trở thành những bậc thầy trong “nghề” dạy phổ thông cũng như luyện thi đại học như các thày Bạch Quốc Bính, Nguyễn Chân Biểu, Mai Xuân Hiến, Chu Thế Chi, Phùng Quang Minh, Nguyễn Văn Minh,  Đào Danh Tình, Trần Sùng Lãm, Phạm Văn Khánh, Phạm Quang Lại, Nguyễn Văn Thu, Nguyễn Quốc Soản, Đỗ Trung Cường, Trương Hữu Cường, Bùi Cường, Võ Khắc Đôn, Trần Hữu Dực, Phạm Doãn Mậy, Nguyễn Thọ Vĩnh, Lê Hữu Diệm, Trần Công Hồng, Phan Tấn Thế... (môn Toán); Lê Hùng, Nguyễn Thân Bổng, Thẩm Gia Đạo, Nguyễn Đức Lương, Nguyễn Văn Đạt, Đoàn Ngọc Bẩy, Nguyễn Ngọc Xuân, Nguyễn Văn Sêu, Nguyễn Văn Nghị, Trần Văn Xiển, Đinh Văn Tịnh, Hà Đức Tú, Nguyễn Hữu Miện, Nguyễn Hữu Bảo, Phùng Ngọc Huyên, Long Hà, Nguyễn Tuyển, Vũ Đình Khang, Tạ Đình Điền, Đặng Hữu Trình, Võ Tam Tỉnh... (môn Vật Lý); Tạ Dũng, Nguyễn Đại Thành, Hoàng Văn Côi, Đào Quyết Thắng, Phạm Hóa, Phạm Mạnh Chuẩn, Nguyễn Văn Mộc, Phan Huy Vân, Thái Thị Long... (môn Hóa); Cao Cự An, Nguyễn Hữu Trường, Nguyễn Khắc Tố, Lê Đình Căn, Phạm Đăng Hiệu... (môn Văn); Nguyễn Mạnh Hà, Hoàng Văn Tám... (môn Sinh vật); Lê Vân Hà, Nguyễn Chí Tâm, Nguyễn Hữu Dũng, Vũ Tư Chiệc, Vũ Gia Ninh, Nguyễn Kim Thư, Trần Thị Huấn, Đỗ Đắc Luyến, Phạm Huyền Nga, Nguyễn Văn Thưởng, Lê Hữu Tiệp, Đào Ngọc Tài, Trần Thị Minh Trang, Phí Văn Hội... (môn Ngoại ngữ); Đinh Công Bắc, Nguyễn Thị Kim, Đoàn Văn Thường... (môn Lịch sử); Đinh Văn Châu, Lâm Quang Dốc, Nguyễn Văn Thạch... (môn Địa lý).
Hàng trăm lượt cán bộ quản lý và công nhân viên mẫn cán khác, cũng đã sát cánh cùng các thế hệ giáo viên và học viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị trọng tâm là dạy tốt và học tốt mà Quân uỷ và Bộ Quốc phòng giao, góp phần to lớn vào truyền thống vẻ vang của nhà trường.
Đến đầu những năm 80 của thế kỷ trước, nền giáo dục nước nhà đã đủ sức trang bị trình độ văn hóa cấp 3, bây giờ gọi là Phổ thông Trung học, cho những thanh niên muốn lập nghiệp trong quân đội. Họ thi thẳng vào các học viện, các trường cao đẳng quân sự, các trường sỹ quan, mà không phải qua các trường VHQĐ nữa (kể cả các trường văn hóa của QK, quân đoàn, quân - binh chủng). Các sỹ quan trẻ cũng không còn phải học bổ túc văn hóa như trước.
Từ khoá học 1981 - 1982, Khối Ngoại ngữ của trường đã tách ra, lập nên Trường Đại học Ngoại ngữ Quân sự. Đại tướng Phùng Quang Thanh - Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Quốc phòng hiện nay, đã theo học trường này.
Đến năm 1990, khối văn hóa còn lại, sáp nhập vào Trường Sĩ quan Lục quân I. Trường VH Bộ Quốc phòng chính thức kết thúc vai trò lịch sử của mình.
Thế là một mái trường (với 3 cái tên khác nhau: Trường Văn hóa Quân đội; Trường Văn hoá Quân đội - Nguyễn Văn Trỗi; Trường Văn hóa Bộ Quốc phòng), một “con đò” quân sự đặc biệt, sau 35 năm tồn tại và miệt mài sông nước (1955 - 1990), đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử mà Quân uỷ, Bộ Quốc phòng  trao cho, đã thôi không còn “chở khách” từ 25 năm nay. Nó thanh thản bỏ neo trong trí nhớ của cả “người chèo đò” lẫn “khách qua sông” suốt những năm tháng hàn vi về văn hóa ấy của quân đội ta, dẫu hôm nay đã người còn người mất.
Một Huân chương Chiến công hạng Hai và một Huân chương Chiến công hạng Ba đã được trao cho “con đò” ấy. Chẳng bao giờ người ta còn thấy “con đò” ấy qua sông nữa. Nó sẽ mãi ngủ ngon. Trang sử ấy, trang sử diệt “Giặc dốt” bậc phổ thông trong quân đội, chắp cánh cho nhiều cán bộ - chiến sĩ ưu tú của quân đội ta bay cao, vươn xa, về căn bản, đã được viết xong! Trí tuệ, mồ hôi của hàng trăm lượt cán bộ, giáo viên, công nhân viên nhà trường rất đáng được ghi nhớ.
Trong lễ kỷ niệm 55 năm, ngày thành lập trường (2010), Đại tướng Lê Văn Dũng, khi ấy là Bí thư TW Đảng, Chủ nhiệm TCCT, một học viên cũ của trường, đã phát biểu: “... Nếu còn phiên hiệu, Trường VHQĐ xứng đáng được trao danh hiệu Anh hùng LLVT. Trước mắt, cần đề nghị Bộ Tư lệnh các QK cho dựng những tấm bia lưu niệm - ghi lại công trạng của nhà trường ở những nơi Trường VHQĐ đã đóng quân như: Kiến An, Lạng Sơn ...”.
Dù chưa có được những danh hiệu cao quý, những tấm bia công trạng... nhưng những lời của Đại tướng cũng đã làm ấm lòng bao cán bộ, giáo viên, công nhân viên đã từng giảng dạy và công tác dưới mái trường này.
 Đ.T.L
                                                                                               
* Chữ đỏ là viết thêm.





[1] Bài phát biểu nhân kỉ niệm “60 năm, ngày thành lập Trường VHQĐ (18/5/1955 – 18/5/2015)”. Hà Nội, 17/5/2015.

[2] Giáo viên Lý, sau về Báo QĐND và Đài Tiếng nói Việt Nam. Đã nghỉ hưu.



1 nhận xét:

  1. Sau khi có nghị quyết 9 (1964), một loạt các học viên đang học tại các học viện, nhà trường quân sự Liên xô phải trở về nước. Một số trong số này sau khi chỉnh huấn NQ9 tại Bần Yên Nhân xong được điều về lại trường VHQĐ Lạng sơn học Trung văn để sang học tiếp tại TQ. 2-1965, Các giáo viên tiếng Trung như các thấy cô: Lý thị Ngần, Nguyễn thị Tâm, Ngô Minh Tuyết, Cô Lan... mới được điều về dạy cho lớp-Hầu hết các cô giáo đều rất trẻ, là Việt kiều sống tại Côn minh Vân Nam. Các thầy cô tình nguyện trở về Tổ Quốc để tham gia cuộc KCCM. Sau lớp bổ túc cấp tốc, lớp các thầy cô giáo Trung văn này lại đảm nhiệm việc dạy tiếng Trung cho các khóa học viên Nguyễn văn Trỗi tại Quế Lâm. ( TĐ)

    Trả lờiXóa

Nếu bạn không đăng kí mà muốn có comment thì sau khi viết nhận xét (nhớ đọc lại 1 lượt) và điền tên (hoặc nickname) của mình, rồi click vào mục "Ẩn danh" ("Chọn 1 nhận dang" ở phía dưới). Sau đó gửi nhận xét.