Chúng
ta đều biết đến ngôi đền Phật giáo lớn nhất thế giới là Borobudur ở
Inđônêxia được khám phá trong vùng rừng rậm của đảo Java vào đầu thế kỷ
XIX và ngày nay đã hồi sinh để trở thành một nơi chiêm bái và một thắng
cảnh du lịch trong lòng một quốc gia Hồi giáo. Tuy nhiên có lẽ ít ai
biết về di sản tuyệt vời khác của Phật giáo là Ajanta cũng đã được khám
phá một cách thật tình cờ vào đầu thế kỷ XIX để ngày nay trở thành một
nơi hành hương tại Ấn độ, nơi mà Phật giáo đã phát sinh và đã từng biến
mất.
Bài viết ngắn dưới đây sẽ tường thuật lại sự khám phá ly kỳ đó và mô tả sơ lược di tích quý giá này kèm theo một mẫu chuyện để chúng ta cùng suy tư.
Một sự tình cờ lý thú
Ngày 28 tháng 4 năm 1819, có một toán quân lính
người Anh thuộc đạo quân viễn chinh ở Ấn độ cưỡi ngựa đi tuần tra dọc
theo dãy núi Indhyadri trong một vùng hẻo lánh phía đông bắc tỉnh
Aurangabad, tiểu bang Maharashtra nơi miền Tây bắc nước Ấn. Đoàn lính
tiến dần vào một hẻm núi thật sâu và hoang dã. Dưới chân họ con suối
Waghora chảy xiết, ôm sát vào chân núi và luồn sâu vào hẻm vực. Đại úy
John Smith thuộc đội kỵ mã thứ 28 của đoàn kỵ binh đóng ở Madras đang lơ
đãng nhìn lên sườn núi dựng đứng thì chợt thấy dường như có những cửa
hang trên vách đá. Khá tò mò vì các cửa hang có vẻ không phải là thiên
nhiên mà do tay người đục khắc, anh chàng sĩ quan này bèn nhảy xuống
ngựa và tìm cách trèo lên vách núi để xem cho biết. Lanh
quanh một lúc thì anh ta tìm được cách trèo lên được vì nơi này có
nhiều bậc thang khá hẹp đục vào vách đá. Sau khi lên đến nơi thì anh ta
cũng chỉ quan sát qua loa cảnh tượng hiện ra trước mắt rồi phải trèo
xuống vì các đồng đội còn đang đứng chờ bên dưới. Tuy nhiên anh chàng
John Smith vẫn cố lấy bút chì ghi tên mình và ngày tháng vào một góc kín
đáo trên một trụ đá ở một cửa hang lớn, và nét bút chì ấy cho đến ngày
nay vẫn còn lờ mờ. Sau đó thì các hang động này lại chìm vào sự yên lặng
mênh mông của những ngàn năm quá khứ. Tuy nhiên câu chuyện khám phá
chớp nhoáng của viên đại úy sau đó thỉnh thoảng cũng vẫn được đồn đại
trong đoàn quân viễn chinh.
Năm năm sau, vào tháng 2 năm 1824, có một viên trung
úy tên là James Alexander thuộc đạo quân xung kích 16 trong đoàn quân
viễn chinh Anh quốc quyết định xin nghỉ phép vài hôm để đi săn. Anh
trung úy trẻ này rất say mê săn bắn và vẫn thường mong có dịp đi săn
trong hẻm vực Waghora vì anh nghe nói nơi đây có rất nhiều thú nhất là
các loài thú dữ, xứng đáng với biệt danh "thung lũng cọp" mà người ta
gán cho nơi này. Trước khi lên đường bạn bè trong quân ngũ cảnh giác anh
ta là ngoài thú dữ ra còn có nhiều thứ nguy hiểm khác nữa, nhất là bọn
thổ dân Bhil sinh sống trong các vùng rừng núi thuộc miền trung và tây
bắc nước Ấn. Thổ dân Bhil rất ghét người lạ dám cả gan xâm nhập vào lãnh
địa của họ. Mặc dù đã được cảnh giác nhưng James
Alexander chẳng đếm xỉa gì đến chuyện ấy vì anh ta rất mê săn heo rừng,
beo, báo và cọp.
James Alexander nhờ một người thợ săn địa phương dẫn
đường. Vào thời bấy giờ có nhiều thợ săn chuyên nghiệp gọi là shikari,
rất thiện nghệ và chuyên phục vụ cho những người giàu có và quý phái tại
địa phương hoặc từ Anh Quốc đến và nhất là các sĩ quan thích săn bắn
trong đạo quân viễn chinh. Anh trung úy còn dẫn theo hai người lính
trong nhóm sepoys, tức là đội lính tập tuyển mộ tại địa phương. Cả bọn
trang bị khí giới đủ loại gồm súng ngắn, súng dài, kiếm, lao, mác... và
đoàn đi săn cứ thế mà băng rừng tiến vào hẻm núi Waghora.
Khi vừa đến cửa thung lũng nơi có một dòng suối chảy
xiết thì bỗng nhiên có tiếng huýt sáo vọng lại từ phía vách núi trước
mặt. Cả đoàn dừng lại để lắng nghe động tĩnh, và đúng là có người đang
rình rập vì có nhiều tiếng huýt sáo khác đáp lại từ các bụi rậm và hốc
đá chung quanh. Quả đúng là đoàn đi săn đang bị thổ dân Bhil phục kích.
Mặc dầu sợ hãi nhưng cả đoàn tay cầm khí giới cứ tiến lên , vừa cẩn thận
quan sát chung quanh. Bỗng nhiên nhiều thổ dân Bhil cầm cung tên nhô
đầu lên từ các bụi rậm, gốc cây và hốc đá. Cũng lạ là họ không tỏ vẻ gì
tức giận hay đang chuẩn bị tấn công mà chỉ có vẻ tò mò đưa mắt theo dõi
thế mà thôi. Đoàn săn bắn cũng bớt sợ vì họ biết rằng các mũi tên của
thổ dân Bhil
đều có tẩm thuốc độc. Trung úy James Alexander vẫn giữ được bình tĩnh
và nhận thấy người Bhil có thân hình nhỏ thó, da đen sậm và gần như là
trần truồng.
Đoàn săn bắn tiếp tục ngược theo dòng suối để tiến
vào hẻm vực trong khi các thổ dân Bhil vẫn rình rập phía sau nhưng chỉ
quan sát mà không tấn công. Sau cùng thì đoàn săn bắn cũng tiến được vào
giữa hẻm núi, khu này có hình vòng cung giống như hình móng ngựa, chiều
ngang độ vài trăm mét. Viên trung úy James Alexander vừa canh chừng các
thổ dân Bhil vừa quan sát vách núi trước mặt và bất ngờ anh ta trông
thấy khoảng hơn một chục miệng hang cheo leo trên vách đá...
Vì tò mò thúc đẩy, trung úy James Alexander bèn ra
lệnh cho cả đoàn tìm cách trèo lên để xem. Khi lên được đến nơi thì họ
mới biết là các hang đúng là do tay người đục đẽo. Cửa hang hình vòm
cung có cột đá chống đỡ và tất cả các hang đều được đục thẳng từ bên
ngoài vào trong vách núi. Tường và cột đá ở cửa hang được chạm nổi với
các hình người, hình thú vật, hoa, lá.... Một số hang bị đá sụp lấp kín
lối vào, nhưng một số hang khác vẫn còn kẻ hở có thể chui vào được. Vô
cùng kinh ngạc trước quang cảnh đồ sộ của các cửa hang đang hiện ra
trước mặt, James Alexander bèn quyết định chui vào bên trong xem sao. Cả
đoàn tìm cành và cỏ khô bó lại làm đuốc rồi chui vào một cửa động. Ánh
sáng làm cho hàng ngàn con dơi
đang đeo ngược trên trần hoảng sợ bay tán loạn. Trên mặt đất có nhiều
đống phân động vật cho biết là có nhiều thú như khỉ, chó rừng, cọp,
gấu... đến trú ẩn. Đoàn người lại tìm thấy một cầu thang đưa họ lên các
gian phòng ở tầng trên. Tại đây họ thấy có vết tro còn mới và trong một
góc tối có một bộ xương người.
Đoàn "thám hiểm" lại tiếp tục chui vào các hang động
khác. Một số hang có kích thước nhỏ và không sâu lắm, nhưng có một số
hang khác thì thật mênh mông, trần cao vút như trong một ngôi đền đồ sộ.
Trong một hang lớn dưới ánh đuốc bập bùng hiện ra trước mặt họ một pho
tượng Phật to lớn và oai nghiêm, trên tường trong hang có nhiều bức
tranh vẽ rất tinh xảo và tuyệt đẹp, màu sắc rực rỡ. Cả đoàn như bị mê
hoặc trước những khám phá ngoạn mục, quên bẵng việc săn bắn và quên cả
các thổ dân Bhil còn đang rình rập dưới chân núi. Đến chiều thì họ mới
trèo xuống để tìm đường về. Mặc dù không bắn được một con thú nào nhưng
tay săn James Alexander không hề thất vọng vì anh ta tin chắc là mình đã
khám phá ra một di tích
ngoại hạng, một tu viện đồ sộ và tinh xảo đã chìm vào quên lãng, biến
mất trong trong trí nhớ của con người từ lâu..., ngoại trừ một số thổ
dân Bhil là còn biết đến những di tích đó trong sự thờ ơ. Thật ra thì
viên trung úy James Alexander trước khi đi săn cũng không hề nghĩ đến
câu chuyện đồn đại về những hang động do đại úy Smith kể lại từ năm năm
trước, Tuy nhiên John Smith đơn giản là một người tò mò và chỉ cần biết
rằng mình đã trông thấy những hang động trong rừng sâu thế thôi, trong
khi đó thì trung úy James Alexander lại tin chắc là mình đã khám phá ra
một kỳ quan chưa từng có.
Một thời gian ngắn sau khi tin đồn viên trung úy
James Alexander đã khám phá các hang động trong thung lũng Waghora được
lan truyền đi khắp nơi thì các nhà khảo cổ kéo đến và họ đều xác nhận
đấy là một trung tâm Phật giáo lâu đời và đồ sộ chưa nơi nào sánh kịp.
Các nhà khảo cổ bèn mượn tên của ngôi làng gần nhất là Ajanta để đặt tên
cho di tích này. Các công cuộc thăm dò tiên khởi đều công nhận là các
tranh trên tường trong các hang động rất tiêu biểu cho nghệ thuật tranh
vẽ của Ấn độ, và đây là những bức tranh vừa xưa lại vừa đẹp nhất mà
trước đó chưa hề được khám phá. Năm 1983, Ajanta được cơ quan UNESCO của
Liên Hiệp Quốc xếp vào gia tài văn hóa của nhân loại.
Ajanta là một tu viện Phật giáo gồm 29 hang động đục
sâu vào vách núi tạo thành các "ngôi chùa" và "tịnh xá". Vách núi là đá
basalt, một loại đá núi lửa rất cứng. Trong số 29 hang động có ba hang
còn bỏ dở dang chưa hoàn tất. Theo cách bố trí thì các hang được chia
làm hai loại : loại thứ nhất là các hang "chính điện" hay "thiền đường"
(chaitya) bên trong cùng là bệ thờ và nơi bệ thờ có một bảo tháp
(stupa). Loại hang thứ hai là các hang "tịnh xá" (vihara) là nơi nghỉ
ngơi và trú ngụ của tăng đoàn, gồm có một gian tập thể và nhiều phòng
nhỏ.
Cách kiến trúc, tranh vẽ và điêu khắc trong hang cho
thấy là Ajanta được thực hiện vào hai thời kỳ cách nhau khá xa. Thời kỳ
thứ nhất kéo dài từ thế kỷ thứ II trước Tây lịch đến từ thế kỷ thứ I
trước Tây lịch và chịu ảnh hưởng rõ rệt của Phật giáo Nguyên thủy
(Therevada). Cách trang trí trong thời kỳ này khá đơn giản và kém phần
hoa mỹ, đặc biệt nhất là không có một biểu tượng nào tượng trưng cho Đức
Phật. Thời kỳ mở mang thứ hai thuộc vào thế kỷ thứ V và chịu ảnh hưởng
của Phật giáo Bắc tông, thời kỳ xây dựng này tuy ngắn ngủi nhưng đã thực
hiện được nhiều hang động thật đồ sộ, với cách thiết kế phức tạp hơn,
trang trí cũng phong phú và màu mè hơn. Các hang động Ajanta có thể đã
bị bỏ hoang từ thế
kỷ thứ VI, tuy nhiên theo một vài tư liệu khác thì tăng đoàn vẫn còn
lưu lại tại Ajanta cho đến thế kỷ thứ VIII trước khi rời bỏ nơi này.
Nơi trú ngụ của Đức Phật và tăng đoàn
Cho đến nay người ta không hoặc chưa tìm thấy được
một di tích kiến trúc Phật giáo nào được xây dựng vào thời kỳ Đức Phật
còn tại thế, kể cả trong các giai đoạn đầu tiên của các tăng đoàn sau
khi Vị Thầy của họ đã tịch diệt. Vào thời kỳ khi Đức Phật còn tại thế
thì chưa có chùa chiền như ngày nay vì Đức Phật chủ trương một lối sống
hoàn toàn tự do không bị trói buộc vào các sinh hoạt và lo toan thế tục,
và cũng không dừng lại một nơi cố định nào cả. Theo lời giáo huấn của
Ngài thi nếu người đã tu hành mà còn lăn mình vào những mối bận tâm của
thế tục, còn bám víu vào những tiện nghi vật chất và một môi trường sống
cố định để nuôi dưỡng thói quen của mình thì nhất định họ sẽ không thể
nào tu tập
được.
Nếu một người tu hành chưa đủ nghị lực vượt lên trên
những trói buộc bên ngoài thì làm thế nào có đủ khả năng để loại bỏ
những xung động bên trong tâm thức của chính mình. Dựa theo các kinh
sách xưa của Nam tông thì khi Đức Phật còn tại thế chỉ có hai loại "kiến
trúc" có mái che hẳn hoi có thể tạm gọi là "nhà cửa" để giúp cho người
tu hành che thân và tạm trú. Loại thứ nhất gọi là "avasa", tức là những
túp lều do các vị tỳ kheo tự tay cất lấy để tạm trú trên đường hoằng
Pháp hoặc để an cư vào mùa kiết hạ. Các "kiến trúc" này thật ra chỉ là
những chiếc "am" được dựng lên bằng cành lá của cây rừng hoặc bằng các
vật liệu tìm được trong các vùng nông thôn. Các nơi trú ẩn này chỉ có
tính cách tạm thời vì sự
sinh hoạt của tăng đoàn rất linh động không bám vào một nơi cố định nào
cả. Loại "kiến trúc" thứ hai gọi là "arama" hay "vihara" tức là các
"tịnh xá" do các người thế tục giàu có cúng dường và rất có thể họ cũng
tiếp tục đứng ra phụ giúp tăng đoàn trong việc bảo trì bởi vì Đức Phật
và tăng đoàn là những người sống bằng khất thực nên không có tiền của gì
cả. Tịnh xá là các kiến trúc cố định khang trang và có tính cách lâu
bền hơn các "am cỏ" được dựng lên trên đường hoằng Pháp. Các tịnh xá nổi
tiếng nhất được kinh sách ghi chép là vườn Trúc lâm (Venuvana) gần
thành Vương Xá (Rajagrha) và vườn Kỳ Viên (Jetavana) gần thành Xá Vệ
(Sravasti), và dầu sao thì đấy cũng chỉ là những nơi dừng chân của Đức
Phật và tăng đoàn mà thôi. Tuy
nhiên Đức Phật thường lưu lại vườn Kỳ Viên nhiều hơn các nơi khác, nhất
là trong hai mươi năm trước khi Ngài nhập diệt.
Ngoài các tịnh xá mà kinh sách nói đến thì không có
một chứng tích nào khác cho thấy vào thời kỳ Đức Phật còn tại thế đã có
các kiến trúc đồ sộ do tăng đoàn hay do người thế tục xây dựng. Tương
ưng Bộ kinh (phẩm 10) mô tả vườn Kỳ Viên có "những giảng đường to lớn, các gian phòng tiện nghi, kho chứa, đường đi lót đá...",
tuy nhiên cho đến nay các nhà khảo cổ đã không tìm thấy một vết tích
nào đáng kể tại vị trí của vườn Kỳ Viên. Các học giả Tây phương cho rằng
cách mô tả trên đây của kinh sách có phần phóng đại.
Các nơi trú ngụ xưa nhất của những tỳ kheo Phật giáo
mà các nhà khảo cổ khám phá được cho đến nay là các hang động và những
hang xưa nhất thì cũng chỉ được thiết kế bắt đầu từ thế kỷ thứ II trước
Tây lịch như trường hợp của các hang Ajanta trên đây. Cũng có nhiều di
tích Phật giáo xưa hơn, thuộc thế kỷ thứ III trước Tây lịch tức là dưới
triều đại của hoàng đế A-dục, đó là các mặt đá và trụ đá ghi khắc chỉ dụ
của hoàng triều và nhất là các bảo tháp do chính hoàng đế A-dục ra lệnh
xây dựng khắp nơi trên đất Ấn. Tuy nhiên đấy chỉ là những di tích và
những kiến trúc thiêng liêng chứ không phải là tu viện hay chỗ ở của
tăng đoàn. Các học giả Tây phương nghĩ rằng các tịnh xá (arama) nói
chung chỉ là những
gian nhà rộng nhưng rất đơn sơ, sườn bằng tre, lợp lá và vách đất,
giống như nhà cửa ở nông thôn Ấn độ ngày nay. Các giảng đường hay các
tịnh xá lớn chẳng hạn như vườn Kỳ Viên hay Trúc Lâm thì làm bằng cây và
gỗ và các kiến trúc bằng "vật liệu nhẹ" và như thế thì không thể nào tồn
tại được với thời gian.
Sự hình thành của "Chùa chiền"
Mặc dầu Ajanta được thành lập sau khi Đức Phật đã
tịch diệt hơn ba thế kỷ nhưng cũng giúp cho chúng ta một vài ý niệm nào
đó để hình dung ra sự sinh hoạt của tăng đoàn vào những thời kỳ xa xưa
nhất của Phật giáo. Ajanta là các hang động đục thẳng vào núi đá và sau
đó thì bị bỏ quên trong rừng sâu nên vẫn còn giữ được khá nguyên vẹn sau
hơn hai ngàn hai trăm năm, quả thật là một di tích vô cùng quý giá.
Thật vậy trong suốt thế kỷ XIX các nhà khảo cổ đã khám phá ra rất nhiều
di tích Phật giáo rải rác khắp nơi ở Ấn độ, nhưng cho đến nay thì vẫn
chưa có một di tích nào cùng loại lại đồ sộ, tinh xảo và lâu đời hơn
Ajanta. Trong số này có thể kể ra các hang Bedsa gần thành phố Pune, các
hang Bhaja và Kharla gần thành phố
Lonavala thuộc tiểu bang Maharashtra nằm trên bờ biển phía tây của nước
Ấn, (xem hình phụ lục 1).
Nói chung thì các loại hang động đục thẳng vào vách
núi như trên đây cũng gián tiếp giúp hình dung ra "chùa chiền" và các
nơi trú ngụ xưa nhất của Đức Phật và các đệ tử của Ngài. Các chuyên gia
khảo cổ đã căn cứ vào các chứng tích trong các hang động để hình dung
lại "chùa chiền" và "tịnh xá" xây dựng bằng gỗ vào những thời kỳ đầu
tiên sau khi Đức Phật tịch diệt, vì theo họ thì hang động được đục dựa
vào khuôn mẫu của các kiến trúc ngoài trời, và các kiến trúc này thì tất
nhiên phải được xây dựng và thiết kế theo truyền thống đã có từ lâu
đời. Thật vậy các hang động Ajanta tuy được đục thẳng vào núi đá nhưng
đã kiến tạo lại từng chi tiết một và rập khuôn theo cách kiến trúc bằng
gỗ. Người ta nhận thấy
trên trần của các gian phòng trong hang có những kèo cột tượng trưng
cho xà nhà, hai đầu của các kèo cột lại còn đục thêm dấu vết của các đầu
đinh. Vách hai bên cửa hang và bên trong hang được trang trí bằng các
cửa sổ giả, gác giả và bậc thềm giả đục tượng trưng trên mặt đá. Dựa vào
các chi tiết này người ta có thể hình dung ra kiến trúc của "chùa
chiền" vào thời bấy giờ. Tuy nhiên cho đến nay chưa thấy ai có sáng kiến
sử dụng cây và gỗ để xây dựng lại ngoài trời các "ngôi chùa cổ xưa" của
Phật giáo dựa vào các chi tiết tìm thấy trong hang động.
Cửa hang các tịnh xá có mái hiên hình vòm và cột
chống đỡ. Bước vào bên trong là một gian tập thể hình vuông hay chữ nhật
dùng làm nơi sinh hoạt chung. Ba mặt vách của gian tập thể thì được đục
thêm các "phòng" hay đúng hơn là các "hốc" nhỏ kích thước bằng nhau,
dùng làm nơi nghỉ ngơi cho các tỳ kheo. Trong mỗi hốc có hai bệ đá làm
giường. Cách thiết kế tổng quát của các tịnh xá cũng không có gì thay
đổi nhiều giữa hai thời kỳ phát triển, tuy nhiên các tịnh xá Bắc tông
rộng lớn hơn, một số có nhiều tầng và cầu thang thông nhau, đôi khi
trong tịnh xá lại còn có thêm một gian dành riêng làm thiền đường và nơi
thờ phụng.
Các chính điện (chaitya) tại Ajanta cũng được thiết
kế theo cùng một khuôn mẫu như nhau. Chính điện lớn nhất được các nhà
khảo cổ đặt tên là hang số 10, thuộc thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy, tuy
được đục sâu vào vách núi nhưng các hang này lại rập khuôn theo cách
kiến trúc bằng gỗ ở ngoài trời. Phần trong cùng của chính điện là bệ thờ
có hình bán nguyệt, trần là một vòm cao với các "kèo" hình vòng cung
được tạc vào đá nhưng trông giống như làm bằng gỗ, hai đầu kèo chống lên
các trụ đá dựng đứng. Vào thời Đức Phật còn tại thế thì chưa có các
"chính điện" xây dựng bên cạnh các tịnh xá như trường hợp trên đây vì
các tịnh xá thời bấy giờ nhất thiết chỉ là những nơi tạm trú cho tăng
đoàn mà thôi. Tuy nhiên theo các
học giả Tây phương thì chính điện xuất hiện rất sớm sau khi Đức Phật
tịch diệt và được dựng lên bên cạnh các tịnh xá để làm nơi thiền định và
đón tiếp người thế tục. Do đó vai trò của tịnh xá cũng biến đổi đi,
không còn là nơi tạm trú vào dịp kiết hạ trong mùa mưa bão nữa, sự sinh
hoạt của tăng đoàn do đó cũng trở nên cố định hơn.
Trong mỗi chính điện nơi vị trí của bệ thờ đều có
một bảo tháp xá lợi. Các bảo tháp này có lẽ đã xuất hiện vào thế kỷ thứ
III trước Tây lịch khi hoàng đế A-dục quyết định phân tán và đưa xá lợi
đến gần hơn với mọi người trên khắp vùng đế quốc của ông. Kinh sách cho
biết là hoàng đế A-dục xây dựng được tất cả 84 000 bảo tháp và bên cạnh
mỗi bảo tháp lại còn xây thêm một tu viện và mỗi tu viện phải phụ trách
nghiên cứu một chủ đề riêng biệt trong kinh sách. Theo các học giả Tây
phương thì con số 84 000 là một con số tượng trưng với ít nhiều phóng
đại, nhưng dù cho con số này chỉ có tính cách tượng trưng đi nữa thì
cũng phải công nhận là bảo tháp và tu viện hay "chùa chiền" dưới triều
đại hoàng đế
A-dục cũng thật là nhiều. Bảo tháp được xây dựng khắp nơi có mục đích
thay thế cho sự hiện diện của Đấng Thế Tôn. Các vị tỳ kheo dựng lên các
chính điện với bảo tháp xá lợi bên trong vừa để thờ phụng vừa để cảm
thấy Vị Thầy của mình lúc nào cũng ở bên cạnh mình, đồng thời chính điện
cũng được dùng làm nơi để người thế tục đến chiêm bái. Chùa chiền như
ngày nay có lẽ cũng đã bắt nguồn từ đấy.
Sự sinh hoạt của tăng đoàn
Sự sinh hoạt của các tăng đoàn ngày xưa tại Ajanta
nhất định phải phù hợp với những lời dạy bảo của Đức Phật, có nghĩa là
không quá khổ hạnh mà cũng không được quá tiện nghi, và tất nhiên người
tu hành phải tuân thủ các giới luật do chính Đức Phật quy định và các
giới luật đó về sau này được ghi chép lại trong Luật tạng. Tuy nhiên
cũng cần hiểu rằng giới luật trong Phật giáo tuy rất phong phú nhưng
không hề cứng nhắc và bất di dịch. Trong các lần kết tập Đạo Pháp đã
từng có một số giới luật lỗi thời bị loại bỏ và đồng thời có nhiều giới
luật được đặt ra để thích nghi với hoàn cảnh mới.
Dầu sao đi nữa thì lối sống của các tăng đoàn đầu
tiên tại Ajanta tất nhiên vẫn còn chịu ít nhiều ảnh hưởng của lối tu khổ
hạnh và vì thế rất nghiêm túc. Mỗi ngày các vị tỳ kheo thức dậy thật
sớm để ngồi thiền và tụng niệm. Sau đó khi ánh bình minh vừa ló dạng
trên đỉnh núi thì họ kéo nhau xuống suối để tắm rửa và giặt giũ. Theo
giới luật thì các vật tùy thân của mỗi vị tỳ kheo chỉ gồm có hai manh áo
cà sa, một áo ấm để khoác bên ngoài, một cái kim để vá áo, một con dao
nhỏ để cạo tóc và có thể còn có một cái que bằng gỗ cây neem (tiếng
Phạn) dùng để chà răng khi súc miệng và rửa mặt. Neem tên
khoa học là Melia Azedarach (hay là một giống cây tương tợ gọi là Azadirachia indica)
là một loại cây có vị thuốc làm cho sạch miệng. Sau đó thì tất cả chia
nhau thành từng toán băng rừng tìm đến các làng mạc quanh vùng để khất
thực.
Vào thế kỷ XIX, khi các hang động trong hẻm vực
Ajanta được khám phá thì nơi dân cư gần nhất là ngôi làng Ajanta cách đó
năm cây số. Ngược về hơn hai ngàn năm trước thì không biết có dân cư
đông đảo sống gần nơi hẻm núi Waghora hay không ? Để tránh thú dữ các vị
tỳ kheo nối đuôi nhau đi thành từng đoàn và cẩn thận từng bước một để
tránh "dẫm lên các mầm non của cây cỏ và côn trùng dưới chân" (kinh Mahatanhasankhaya).
Họ đi vào các làng mạc trong vùng, bước từng bước thật chậm và khoan
thai, vừa bước vừa nhẫm đi nhẫm lại những lời Phật dạy. Người thế tục
thì đi chân đất để tỏ
lòng tôn kính, họ đứng chờ ở cửa để chia sẻ với người tu hành miếng ăn
mà họ có. Khi có ai đưa tay đặt một chút thức ăn vào bình bát thì người
tu hành nhìn thẳng ra trước mặt hoặc nhìn xuống đất để tránh mọi sự thèm
muốn, chê bai hay đánh giá vật cúng dường. Khi trở về tịnh xá thì mỗi
vị tỳ kheo đặt bình bát của mình vào giữa gian phòng tập thể rồi quây
quần chung quanh, phân chia thực phẩm cúng dường với nhau và ngồi ăn
trong yên lặng, họ không được phép nói chuyện và cũng không được phép
chọn lựa miếng ngon hay lừa bỏ những thức ăn mà mình không thích. Họ
phải ăn trước giờ ngọ, sau đó thì không ăn gì nữa cho đến trưa hôm sau.
Họ được phép nghỉ trưa một lúc vì còn vô số các việc
khác đang chờ đợi họ, nào là quét dọn chính điện, nào là vệ sinh tịnh
xá, các vị lớn tuổi thì hầu tiếp người thế tục đến chiêm bái, ngoài ra
còn thêm một buổi thiền định vào buổi chiều. Đến đêm họ còn phải ôn tập
và truyền khẩu cho nhau những lời giáo huấn của Đức Phật vì khi Ajanta
bắt đầu được thành lập thì lúc đó chưa có kinh sách bằng chữ viết, kinh
sách trên lá bối chỉ xuất hiện một thế kỷ sau mà thôi. Các vị tỳ kheo
ngồi quay quần trong các gian tập thể chung quanh một ngọn đèn dầu để ôn
tập những lời giảng của Đấng Thế Tôn. Người có trí nhớ tốt giúp cho
người chậm trí hơn, mỗi người thay nhau đọc lên một đoạn kinh, nếu quên
thì có
người khác nhắc. Người lớn tuổi bình giảng thêm cho người trẻ tuổi và
cứ như thế mà họ thảo luận và giúp đỡ nhau. Dầu sao thì việc truyền khẩu
và cách học thuộc lòng những lời Phật dạy cũng mang tính cách sinh động
và linh thiêng hơn những dòng chữ khô khan trên những tờ lá bối. Có thể
việc ôn tập đó cũng là nguồn gốc làm phát sinh ra việc tụng niệm sau
này.
Vào những ngày lễ lạc, chẳng hạn như những ngày rằm,
mùng một thì họ còn phải nhịn đói để tự nhắc nhở và biểu lộ lòng quyết
tâm tu tập của mình. Họ sám hối trước tập thể tăng đoàn, vị tỳ kheo lớn
tuổi nhất xướng lên từng giới luật một, các vị khác lắng nghe nếu thấy
mình phạm vào một giới luật nào đó thì phải thú nhận, "ai
phạm vào một lỗi lầm chưa có dịp nói lên và nếu muốn tẩy uế lỗi lầm đó
thì phải thú nhận. Thú nhận lỗi lầm sẽ mang lại sự nhẹ nhõm cho chính
mình" (Kinh Mahavaga, 2).
Tuy nhiên đời sống ở Ajanta cũng có những phút giây
thanh thản. Vào lúc tinh sương khi những người tu hành xuống suối để tắm
giặt thì chim muông cũng thức dậy hót vang trên các mõm đá và trong các
cành lá của cây rừng. Có những đêm trăng sáng giữa cảnh rừng núi mênh
mông và yên lặng họ ngồi chung quanh những đống lửa ở cửa động để hàn
huyên hay chỉ để trầm tư một mình. Tiếng suối róc rách từ thung lũng
vang lên giữa cảnh tịch mịch của đêm thâu. Tiếng suối thì lúc nào cũng
vọng lên cửa động nhưng trong ngày thì sự bận rộn nào có cho phép họ
dừng tay để lắng nghe. Đốt lửa lên để xua đuổi thú dữ và để sưởi ấm,
nhưng ánh sáng cũng thu hút côn trùng của rừng sâu kéo đến, người tu
hành quấn chiếc áo tơi lên người
nhìn sự sống đang biến động chung quanh để yêu thương từng chúng sinh
đang bị mê hoặc và lôi cuốn bởi lửa đỏ của ta bà.
Những sinh hoạt trên đây tuy được "hình dung" và
"tưởng tượng" ra dựa vào kinh sách nhưng cũng có thể tượng trưng phần
nào cho sự sinh hoạt của các vị tỳ kheo thuộc các tăng đoàn đầu tiên nơi
hang động Ajanta. Sau này khi Ajanta chuyển sang giai đoạn phát triển
của Bắc tông thì sự sinh hoạt của tăng đoàn cũng trở nên phức tạp hơn,
đa dạng hơn và màu mè hơn, nhất là trong mối tương quan với người thế
tục. Đời sống của các tăng đoàn cũng trở nên cố định hơn. Ngoài ra theo
một số học giả Tây phương thì Ajanta trong thời kỳ Bắc tông đã trở thành
một trung tâm đại học lớn, và sự sinh hoạt cũng theo đó mà trở nên nhộn
nhịp hơn so với thời kỳ Nam tông.
Vị trí của Ajanta
Khi Đức Phật còn tại thế thì Ngài cũng đã dặn dò các
đệ tử về những tiêu chuẩn cần phải có khi thiết lập tịnh xá : phải chọn
nơi nào có nước nhưng vị trí phải cao để tránh ngập lụt, tránh nơi chen
chúc và ồn ào để hành thiền và tu tập, tuy nhiên tịnh xá phải gần nơi
dân cư để có thể khất thực và thuận tiện cho người thế tục lui tới. Trên
phương diện rộng lớn hơn thì người ta cũng có thể tự hỏi tại sao vị trí
của Ajanta lại được chọn ở phía tây của bán lục địa Ấn độ, cách xa
thung lũng sông Hằng gần một ngàn cây số ? Ngoài Ajanta ra còn có nhiều
hang động khác chẳng hạn như các hang Bedsa, Bhaja, Kharla..., tất cả
đều thuộc vào vùng phía tây nước Ấn.
Vào thời kỳ cổ đại hơn hai ngàn năm trước, Ajanta và
các hang động vửa kể đều nằm trên trục giao thương nối liền từ đông
sang tây của bán lục địa Ấn độ, tức là từ thung lũng sông Hằng cho đến
đến bờ biển phía tây. Các đường giao thông và thương mại quan trọng
thường tạo ra các điều kiện thuận lợi giúp cho việc hoằng Pháp dễ dàng
hơn, chẳng hạn như con đường tơ lụa đã mang Phật giáo đến các vùng cận
đông, trung đông và Trung quốc. Dầu sao đi nữa thì ngoài những phương
tiện giao thông thuận lợi ra còn có một yếu tố quan trọng khác là ý chí
và lòng quyết tâm của con người, và chính đấy mới thật là động cơ thiết
yếu trong việc quảng bá Đạo Pháp. Một trăm năm trước khi Ajanta được
thành lập thì chính
hoàng đế A-dục đã quyết tâm quảng bá Phật giáo ra xa hơn thung lũng
sông Hằng và mang xá lợi đến gần với từng người dân trên khắp miền lãnh
thổ của ông.
Vào các thời kỳ thịnh trị, suốt trên trục giao thông
từ thung lũng sông Hằng đến các cửa biển phía tây, ngược xuôi các đoàn
xe bò, xe ngựa đầy ắp hàng hóa, thỉnh thoảng lại còn thấy một vài vị tỳ
kheo tháp tùng với những người buôn bán. Lịch sử cho thấy dân buôn bán
tha phương và các doanh nhân giàu có đã góp phần không nhỏ vào việc
hoằng Pháp. Họ đã mang tín ngưỡng của mình đến những nơi xa xôi và đồng
thời lại cũng là những người cúng dường tích cực nhất.
Một vài di tích khác
Ngày nay các nhà khảo cổ thăm dò những vùng dọc theo
các con đường thương mại cổ xưa đã phát hiện được nhiều di tích Phật
giáo. Trong số này có di tích bảo tháp Bharhut tại miền trung nước Ấn
(tiểu bang Madhya Pradesh) được một đại úy kỹ sư trong quân đội viễn
chinh và cũng là một nhà khảo cổ tên là Alexander Cunningham khám phá ra
vào năm 1873. Bảo tháp Bharhut do chính hoàng đế A-dục xây dựng vào thế
kỷ thứ III trước Tây lịch, và sau đó thì có nhiều công trình kiến trúc
mới được tiếp tục thực hiện thêm cho đến thế kỷ thứ II trước Tây lịch
mới chấm dứt. Các pho tượng và các mặt đá chạm nổi tìm thấy tại nơi này
cho thấy một nghệ thuật điêu khắc vô cùng tinh xảo và đặc sắc. Tiếc thay
Bharhut chỉ còn lưu lại một số
di tích khảo cổ được cất giữ trong bảo tàng viện mà thôi.
Một di tích nổi tiếng khác là các bảo tháp trên ngọn
đồi Sanchi (Kiến-chí) do đại tướng Taylor trong quân đội Anh quốc khám
phá vào năm 1818. Tại nơi này hoàng đế A-dục cho xây cất tám bảo tháp
lớn và một số tu viện, và các thế hệ sau tiếp tục xây dựng thêm cho đến
khi Phật giáo bị các đạo quân Hồi giáo xóa mất trên bán lục địa Ấn độ
vào thế kỷ thứ XII. Khi tin đồn về việc khám phá di tích Sanchi lan đi
khắp nơi thì một số nhà khảo cổ bất chính và bọn tìm vàng đổ xô đến đây
để đào xới và đã gián tiếp tàn phá di tích này. Mãi cho đến năm 1881 thì
chính phủ thuộc địa Anh mới bắt đầu gìn giữ di tích Sanchi cẩn thận
hơn. Sau đó vào đầu thế kỷ XX thì Sanchi mới được trùng tu và ngày nay
đã trở thành một nơi
hành hương quan trọng của Phật giáo trên đất Ấn.
Quá trình thành lập Ajanta
Trên bình diện tổng quát thì các hang 9, 10, 19, 26,
29 là các hang chính điện (chaitya), và tất cả các hang còn lại đều là
các tịnh xá (vihara). Như đã trình bày sơ lược trên đây, Ajanta được xây
dựng vào hai thời kỳ khác nhau : thời kỳ thứ nhất kéo dài từ thế kỷ thứ
II đến thế kỷ thứ I trước Tây lịch; thời kỳ thứ hai khá ngắn ngủi thuộc
thế kỷ thứ V sau Tây lịch. Trong đợt phát triển thứ nhất thì Ajanta có
thể chỉ là các tịnh xá dùng làm nơi trú ngụ tạm thời cho các vị tỳ kheo
Nam tông trong mùa kiết hạ, sau đó thì các tăng đoàn mới lưu lại lâu dài
hơn và sinh hoạt thường xuyên hơn. Giai đoạn thứ hai được phát triển
vào thời kỳ bành trướng lớn của Bắc tông và Ajanta đã trở thành một đại
học Phật giáo. Sau cùng thì
Ajanta trở nên hoang phế và chìm vào quên lãng từ thế kỷ thứ VI (hay
thứ VIII tùy theo tư liệu) cho đến ngày đại úy John Smith đi tuần tra
ngang đó vào tháng tư năm 1817, tổng cộng lại thì Ajanta đã ngủ yên
trong rừng sâu hơn một ngàn hai trăm năm.
Thời kỳ phát triển thứ nhất gồm có các hang 10, 12,
8, 9, 13, xếp theo thứ tự thời gian. Nghệ thuật điêu khắc trong các hang
này khá đơn sơ và không có một biểu tượng nào tượng trưng cho Đức Phật
hoặc trình bày giáo lý của Ngài. Kèo cột đục trong đá thì bắt chước theo
các vật liệu bằng gỗ, cửa sổ và thềm cửa được đục giả vào đá. Trên
tường của các hang số 9 và 10 người ta còn nhận ra được một vài vết tích
tranh vẽ các mẫu hoa lá và các đường nét hình học, dầu sao thì đấy cũng
là những di tích xưa nhất của nghệ thuật tranh vẽ Ấn độ còn lưu lại đến
nay.
Trong một thời gian dài bốn trăm năm sau khi đợt xây
dựng đầu tiên chấm dứt vào thế kỷ thứ I trước Tây lịch thì bỗng nhiên
vào thế kỷ thứ V dưới triều đại Vakataka đồng thời với một triều đại
khác cực thịnh ở miền bắc là triều đại Gupta, thì công cuộc phát triển
Ajanta lại được tiếp tục. Đợt phát triển này chịu ảnh hưởng rõ rệt của
Bắc tông. Thời gian khởi công và chấm dứt của thời kỳ xây dựng thứ hai
không được xác định chính xác lắm và vẫn còn là một vấn đề tranh cãi
giữa các học giả, có thể đợt xây dựng thứ hai khởi công vào khoảng năm
450 dưới thời vua Harisena và chấm dứt vào khoảng năm 550 tức là vào thế
kỷ thứ VI. Một giả thuyết khác cho rằng đợt xây dựng này thuộc hẳn vào
triều đại
của vua Harisena và đã khởi công vào năm 462 và chấm dứt vài năm sau
khi vị vua này qua đời vào năm 486. Nếu dựa theo giả thuyết này thì vua
Harisena có thể là người chủ xướng mở mang Ajantra và sau khi ông mất
thì Ajanta cũng bị bỏ hoang. Tuy nhiên cũng có giả thuyết cho rằng sự
sinh hoạt của Ajanta kéo dài cho đến thế kỷ thứ VIII.
Cách định tuổi các biến cố ở Ajanta
Cách định tuổi các biến cố xảy ra ở Ajanta trước hết
được dựa vào các kinh sách có đề cập đến các hang động này và sau đó là
dựa vào các mẫu mã trong tranh vẽ và các hình tượng điêu khắc vì những
chi tiết đặc thù đó tượng trưng cho từng giai đoạn phát triển của nền
văn hóa và nghệ thuật Ấn độ. Ngoài ra cách so sánh với các hang động
tương tợ được thực hiện ở các nơi khác vào cùng một thời kỳ với Ajanta
cũng mang lại nhiều hiểu biết hữu ích. Đặc biệt nhất là trong hang số 16
người ta tìm thấy chữ ký của một vị quan thuộc triều đình của vua
Harisena, vì thế các học giả thường xoay quanh mốc thời gian này để định
tuổi cho đợt xây dựng thứ hai và các biến cố liên hệ.
Trong đợt phát triển thứ hai thì các hang được được
khởi công gần như liên tiếp nhau và không có sự gián đoạn nào đáng kể.
Hang 11 và tầng bên dưới là hang số 6 được khởi công trước nhất, và ngay
sau khi được hoàn tất thì đến lượt các hang 7, 8, 16 được khởi công
cùng một lúc, tuy nhiên chỉ có hai hang 7 và 8 là được hoàn tất trọn
vẹn, hang 16 bị bỏ dở, và sau đó đến lượt hang 17 được khởi công và cũng
bị bỏ dở, trong khi đó hang 19 được khởi công gần như cùng lúc với hang
17 thì lại được tiếp tục cho đến khi hoàn tất. Hang số 1 và số 2 là hai
hang quan trọng và tiêu biểu nhất được thực hiện vào giữa thời kỳ phát
triển thứ hai.
Sự khác biệt về kiến trúc và trang trí
giữa hai thời kỳ phát triển
giữa hai thời kỳ phát triển
Cách kiến trúc, điêu khắc và tranh vẽ trong các hang
rất khác biệt nhau giữa hai giai đoạn phát triển. Phần trình bày dưới
đây sẽ phân tích sự khác biệt đó trong ba lãnh vực như kiến trúc, điêu
khắc và các tranh vẽ trên tường.
Cách kiến trúc và bố trí các hang thiết kế dưới các
triều đại Gupta-Vakataka vào thế kỷ thứ V khác hẳn với các hang thành
lập từ trước thuộc các thế kỷ thứ II và thứ I trước Tây lịch. Cách bố
trí các hang tịnh xá (vihara) thuộc đợt xây dựng thứ hai phức tạp hơn,
gồm nhiều tầng và nhiều phòng ốc hơn, trần có thêm cột chống đỡ, và nhất
là gian tập thể khang trang hơn và thường thì có thêm một gian làm nơi
thờ phụng ngay bên trong trong tịnh xá. Nói chung đối với các hang trong
đợt phát triển này thì cách trang trí dựa theo các vật liệu bằng cây
không còn được chú trọng nữa, các kèo cột giả gỗ khó nhận ra hơn và chỉ
được tượng trưng một cách kín đáo. Mặt tiền các tịnh xá và chính điện có
thêm mái che rất cao và rộng
lớn hình vòm và nhiều cột chống đỡ, tất cả đều được trang trí bằng các
điêu khắc đủ loại.
Trong các chính điện thuộc giai đoạn thiết kế thứ
nhất không thấy có một biểu tượng nào tượng trưng cho Đức Phật mà chỉ có
một bảo tháp xá lợi duy nhất nơi bệ thờ. Trong giai đoạn thiết kế thứ
hai thì các hình tượng của Đức Phật xuất hiện khắp nơi gồm các pho tượng
thật lớn và các loại điêu khắc chạm nổi trên tường, trên trần và trên
các kèo cột. Tượng Đức Phật được diễn đạt bằng hai cách : hoặc ngồi
buông chân trong một chiếc ngai như một đế vương, hoặc trong tư thế
thiền định. Trong các chính điện số 19 và 26, nơi bệ thờ và phía trước
bảo tháp còn đặt thêm một pho tượng Phật thật lớn. Sự ghép đặt tượng
Phật và bảo tháp chung với nhau nơi bệ thờ có thể xem như cách tượng
trưng cho sự phối hợp
giữa Nam và Bắc tông chung trong một chính điện. Ngoài ra trong các
hang thuộc đợt xây cất thứ hai người ta còn nhận thấy lần đầu tiên xuất
hiện các bức tượng "Phật nằm", tượng trưng cho giây phút Đức Phật nhập
vào Đại bát Niết bàn.
Đối với các tranh vẽ thì trước hết các mặt đá được
tô thêm một lớp hồ làm bằng đất sét trộn với phân bò và gạo, bên trên
lớp hồ được tô thêm một lớp vôi và sau cùng thì lớp vôi được mài cho
thật phẳng trước khi vẽ tranh. Ngoài các bức tranh tượng trưng "một ngàn
vị Phật" dựa theo sự tích xảy ra tại thành Xá Vệ (Sravasti) tìm thấy
trong hang số 2 thì hầu hết các tranh ảnh khác đều mượn các chủ đề về
tiền thân Đức Phật trong kinh Jataka. Cách trình bày sự tích về tiền
thân Đức Phật được diễn tả thật khéo léo bằng nhiều bức tranh liên tục
nối tiếp nhau, không thấy một sư gián đoạn nào cả. Cử chỉ và ánh mắt của
các nhân vật phụ trong tranh được diễn tả thật ý nhị và tài tình, hướng
dẫn sự chú ý của
người xem vào nhân vật chính hoặc chuyển sang một sự tích khác. Màu sắc
trong tranh thật phong phú, gồm các màu nâu, đỏ gạch, vàng, xanh,
lục... Các nhân vật nữ giới được diễn tả thật hiện thực và tinh tế, vừa
khêu gợi lại vừa e thẹn. Hầu hết các học giả đều công nhận là các tranh
trên tường trong các hang động Ajanta rất tiêu biểu và có thể đại diện
cho các loại tranh truyền thống đặc thù nhất của Ấn độ. Tiếc thay số du
khách ngày càng đông đảo của ngành du lịch "kỹ nghệ" ngày nay đã làm hư
hại phần lớn gia tài văn hóa đó của nước Ấn và của nhân loại nói chung,
vì không làm sao ngăn cản được hàng ngàn du khách sờ mó lên tường. Hơn
nữa sự hiện diện đông đảo của du khách trong các hang động cũng làm cho
không khí bị ô nhiễm
thêm, nấm và vi khuẩn đủ loại phát sinh và xóa dần những bức tranh vô
giá của những di tích ngàn năm.
Sự suy tàn của Ajanta
Tư liệu và khảo cứu về Ajanta thật hết sức phong
phú, tuy nhiên rất khó tìm thấy một học giả Tây phương hay Ấn độ nào đề
cập đến nguyên nhân suy tàn của các hang động này. Một học giả Tây
phương là bà Sophie Royer nêu lên trong quyển sách "Đức Phật" (Bouddha,
nhà xuất bản Gallimard, 2009, Paris) một giả thuyết giải thích về sự suy
tàn của Ajanta (trang 286-287) như sau :
" ...Bên
cạnh chân dung của các vị Bồ-tát và các cảnh tượng mô tả lại sự tích
các tiền thân Đức Phật, người ta cũng có thể chiêm ngưỡng trên các vách
đá trong tịnh xá những hình ảnh phụ nữ khêu gợi và thật tinh xảo, môi
thoa đỏ đang lắc mông nhảy múa, và cả những cảnh tượng tiếp nối nhau nêu
lên từng chi tiết nhỏ các cảnh xa hoa của cuộc sống vương giả... Khi
thực hiện các tác phẩm vô giá của nghệ thuật Ấn độ trên đây, các vị tỳ
kheo nơi hang động Ajanta có thể đã không nghĩ rằng là chính mình đang
chuẩn bị khí giới để đưa cho kẻ khác hại mình : vì một ngày nào đó những
người Bà-la-môn sẽ không còn do dự gì nữa khi đưa tay trỏ thẳng vào sự
xa hoa và biết đâu cả sự
dâm ô bắt đầu lan rộng trong các tu viện lớn ở Ấn độ. Những chỉ trích
đó của người Bà-la-môn cũng đã góp phần vào sự suy tàn của Phật giáo
ngay trên phần đất nguyên thủy của chính mình"
Thiết nghĩ các lý do nêu lên trên đây thật là hời
hợt và hoàn toàn sai lầm. Các cảnh tượng rất hiện thực trong các bức họa
trên tường có mục đích trình bày diễn tiến các câu chuyện về tiền thân
của Đức Phật trích dẫn từ kinh Jataka,
các cảnh tượng đó giúp cho người tu hành chiêm nghiệm và suy tư. Tác
giả Sophie Royer chỉ nhìn thấy những phụ nữ khêu gợi và những cảnh xa
hoa nhưng không nhìn thấy sự đối nghịch của chúng tức là hình ảnh các vị
Bồ-tát đứng bên cạnh những thứ ấy với gương mặt trong sáng, trong đôi
mắt của họ hiện lên lòng từ bi và sự giác ngộ. Sự suy tàn của Phật giáo
trên đất Ấn có những nguyên nhân bao quát hơn, thực tế hơn và sâu xa hơn
nhiều.
Vì thế thiết nghĩ nếu muốn tìm hiểu sự suy tàn của
Ajanta và Phật giáo nói chung ở Ấn độ thì có lẽ cần phải nhìn vào bối
cảnh chung của lịch sử quốc gia này vào thời bấy giờ. Vào thế kỷ thứ V,
các đạo quân Hung nô xâm lăng Ấn độ đã tàn phá hầu hết các trung tâm
Phật giáo lớn trong vùng tây bắc của nước này. Rất nhiều tư liệu cho
biết là các đạo quân xâm lược Hung nô rất thù ghét Phật giáo, giết tăng
ni và tàn phá chùa chiền, nhưng lại không giải thích vì lý do gì. Tuy
nhiên người ta có thể nghĩ rằng người Hung nô rất thù ghét người Hán và
đã gián tiếp không thích tôn giáo của họ tức là Phật giáo. Sự xâm lăng
của các đạo quân Hung nô vào miền bắc Ấn độ làm cho đế quốc Gupta phải
tan rã. Khi toàn thể miền bắc
Ấn bị chia cắt thành nhiều vương quốc và giặc giã nổi lên khắp nơi thì
người dân phải rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn của mình để chạy loạn và đã
đổ dồn về các vùng miền đông và trung Ấn. Sư sãi cũng chạy theo và có lẽ
sự phát triển và xây dựng Ajanta cũng vì thế mà phải ngưng lại vào thời
kỳ này tức là vào cuối thế kỷ thứ V hay đầu thế kỷ thứ VI. Sự sinh hoạt
của tăng đoàn nơi các hang động Ajanta cũng bị bị thu hẹp và hai thế kỷ
sau thì hoàn toàn trở thành hoang phế. Ajanta chìm vào quên lãng hơn
một ngàn năm cho đến tháng 2 năm 1824 khi trung úy James Alexander trong
một cuộc săn bắn đã khám phá ra một cách thật tình cờ.
Sau một thời kỳ giặc giã triền miên suốt hơn hai
trăm năm và mãi cho đến thế kỷ thứ VII thì nhà vua Harsavardhana
(606-647) dưới triều đại Pusyabhuti mới thống nhất được miền bắc Ấn. Mặc
dầu triều đại này khá ngắn ngủi nhưng việc giao hảo với các quốc gia
khác lại rất tích cực, nhất là đối với Trung quốc. Chính vào thời kỳ này
Trung quốc đã đưa nhiều nhà sư sang tu học tại Ấn và trong số đó có
ngài Huyền Trang. Trong tập Đại Đường Tây vực ký,
ngài Huyền Trang có cho biết là một đại luận sư Phật giáo là ngài Trần
Na (Dignaga, 440-520) đã từng đến Ajanta. Trong giai đoạn lịch sử này
miền nam nước Ấn bị chia làm ba quốc gia
khác nhau là Calukya thuộc tây nam, Pallava thuộc đông nam và Pandya
thuộc cực nam. Các quốc gia này đều thấm nhuần nền văn hóa Dravidien của
người Tamoul (ngôn ngữ và văn hóa rất khác với miền bắc). Mặc dù các
quốc gia miền nam không thù nghịch với Phật giáo nhưng không hề ủng hộ
Phật giáo như các quốc gia miền bắc. Khi các đạo quân Hồi giáo tràn vào
bắc Ấn thì một số nhà sư Phật giáo thường lánh nạn lên Tây tạng hoặc
vượt biển sang Indonêxia và đã mang Phật giáo đến các nơi này.
Vào thế kỷ thứ VIII một đế quốc mới là Pala được
thành lập tại các vùng miền bắc gồm có Ma-kiệt-đà (Maggadha) và Orissa
(miền cực đông thuộc cửa sông Hằng) và triều đại này đã đánh dấu thời kỳ
hưng thịnh cuối cùng của Phật giáo tại bán lục địa Ấn độ. Dưới triều
đại Pala có một số đại học Phật giáo lớn được thành lập như Somapura và
Odantapuri dưới sự quản lý của một tông phái Phật giáo mới là Tan-tra
thừa còn gọi là Kim cương thừa. Tông phái này được truyền vào Tây tạng
kể từ thế kỷ thứ VIII.
Triều đại Pala chưa kịp củng cố lãnh thổ thì các đạo
quân Hồi giáo từ Afghanistan lại tràn vào bắc Ấn đốt phá chùa chiền,
giết hại sư sãi. Đại học Na-lan-đà bị san bằng vào năm 1199, sư sãi bị
giết, thư viện bị đốt sạch và biến cố này đã đánh dấu trang cuối cùng
của lịch sử Phật giáo kéo dài mười bảy thế kỷ trên phần đất này của địa
cầu.
Lời kết
Mười bảy thế kỷ hiện diện của Phật giáo trên đất Ấn
đã đi vào lịch sử, nhưng rất nhiều di tích vẫn còn đó. Ajanta hiện ra
với chúng ta hôm nay như một kỳ quan ngoại hạng của một thời Phật giáo
vàng son. Trên quần đảo Inđônêxia, Phật giáo cũng đã từng hiện diện hơn
một ngàn năm và cũng đã đi vào lịch sử, chứng tích lưu lại là ngôi đền
Phật giáo Borobudur lớn nhất thế giới vẫn sừng sững trên hòn đảo Java
như muốn tiếp tục thách đố với với thời gian. Quy luật vô thường tác
động lên tất cả mọi hiện tượng trong vũ trụ này, không có một ngoại lệ
nào cả. Tất cả mọi hiện tượng đều liên kết với nhau mà chuyển động,
Ajanta cũng là một hiện tượng vì thế cũng không tránh khỏi cơn lốc của
vô thường. Tóm
lại thiết nghĩ cũng không có gì khác hơn để góp ý thêm cho phần kết
luận này, chỉ xin phép được kể ra đây một câu chuyện khám phá hoàn toàn
khác hẳn để cùng với người đọc suy tư.
Karla caves
Bhaja caves
Bedsa Caves 1000 years old.
Ajanta
Ajanta Caves
Water Falls, Ajanta Caves
Bên trong Ajanta Caves:
Reclining Buddha carved in the Ajanta Caves in Northern India,
dating to the 2nd century B.C
Tranh vẽ trong Ajanta Caves
Temptation of Mara, painting of mural in Cave 1, Ajanta,
1875-1876, Museum no. IS.13-1885
Ajanta Bodhisattva
Phụ lục 1: Hình ảnh các hang Ajanta, Bedsa, Bhaja và Kharla
Karla caves
Bhaja caves
Bedsa Caves 1000 years old.
Ajanta
Ajanta Caves
Water Falls, Ajanta Caves
Bên trong Ajanta Caves:
Reclining Buddha carved in the Ajanta Caves in Northern India,
dating to the 2nd century B.C
Tranh vẽ trong Ajanta Caves
Temptation of Mara, painting of mural in Cave 1, Ajanta,
1875-1876, Museum no. IS.13-1885
Ajanta Bodhisattva
4 nhận xét:
Hay thật!
Bài rất hay và biết thêm 1 kỳ quan của nhân loại.
DH
Diên An cũng là nơi dân toàn đào vào sườn núi làm nhà. Căn cứ Diên An của ĐCSTQ từng đóng ở đây. Chả hiểu còn giữ được như thế này?
Hiện có 2 chương trình mới tuyệt hảo:
1/ Những dạ khúc lãng mạn tuyệt hay của thế giới (CCQ)
2/ Hệ thống chùa cổ của Ấn Độ. Đúng là kỳ quan thế giới, có 1 không 2.
Phạm Trọng
Đăng nhận xét