Tại sao lại như thế?
Bởi vì tất cả những hành vi của chúng ta đều nhắm vào ý đồ
kiểm soát thế giới này và mọi sự hiện hữu, và sự căng thẳng đó nhất thiết sẽ tạo
ra một hố sâu khổng lồ ngắn cách một bên là những gì chúng ta mong muốn được
nhìn thấy và tin rằng những thứ ấy là hiện thực, và bên kia là bản thể đích thực
của hiện thực.
- Tuy thế Phật giáo và Ấn độ giáo đôi khi lại sử dụng một số
ngôn từ giống nhau...
- Đúng thế, nhưng ý nghĩa thì lại khác nhau. Hãy lấy thí dụ
chữ “karma” (nghiệp) (1). Trong Đạo Bà-la-môn thuộc hệ thống kinh điển Vệ-đà,
karma tượng trưng cho một hành vi mang tính cách nghi lễ giúp hội nhập với thế
giới thiêng liêng. Đối với Đạo Bà-la-môn cải tiến trong hệ thống kinh điển
Upanisad, thì chữ karma lại mang ý nghĩa về luân lý : tùy theo hành vi mang phẩm
tính thiện hay ác, sẽ tạo ra một loại khả năng tiềm tàng, và chính khả năng ấy
sẽ chín muồi khi tái sinh trong một kiếp sống thuận lợi hay bất thuận lợi về
sau.
Ngoài ra, Ấn độ giáo lại chủ trương một hình thức định mệnh
: chẳng hạn khi rơi vào một giai cấp nào thì phải tùy thuộc vào giai cấp ấy và
không thể nào thoát ra được, bởi vì karma đã quyết định như thế.
Trong khi đó đối với Phật giáo, karma là một hành vi, và trước
hết là một ý đồ trong tâm thức. Phật giáo phân biệt rõ rệt karma nguyên thủy
làm nguồn gốc và hậu quả phát sinh sau đó từ karma, đấy là hai thứ khác nhau
không thể lầm lẫn được. Sự phát sinh của hậu quả không thể tránh khỏi, nếu ta
không làm gì cả để hoá giải nó, và hơn thế nữa ta còn có thể tinh khiết hoá cả
karma trước khi nó chín muồi.
Mặt khác, karma không ép buộc con người phải sống một cách
thụ động trong một cấu trúc xã hội đã quy định sẳn : mỗi cá nhân phải tự nắm lấy
vận mệnh của mình để tự giải thoát cho chính mình ra khỏi karma, vì đó là một
thứ động cơ thúc đẩy gây ra khổ đau, cần phải được khắc phục. Người ta cũng có
thể tìm hiểu theo phương cách tương tợ đối với chữ “samsara” (luân hồi). Chữ
samsara mang một ý nghĩa giống nhau trong cả hai nền triết học Bà-la-môn và Phật
giáo, tức có nghĩa là sự hiện hữu dựa vào nhiều điều kiện.
Nhưng đối với Ấn độ giáo, con người chỉ có thể thoát ra khỏi
samsara khi nào linh hồn hay “cái ngã” (atman) được giải thoát để hội nhập với
thể dạng Nhất Nguyên Vĩ Đại.
Trong khi đó đối với Phật giáo, samsara trước hết là một sự
quán nhận, phát sinh từ nhiều điều kiện, về một sự hiện hữu do karma và dục vọng
của chính mình tạo tác, vì thế mỗi cá nhân phải tự giải thoát chính mình ra khỏi
cảnh giới luân hồi.Vì vậy, cần phải định nghĩa trở lại các ngôn từ trong từng
trường hợp một.
- Phật giáo có thu nạp các vị thần của Ấn giáo hay không ?
- Có. Toàn bộ hậu cảnh huyền thoại của Ấn giáo đã được thu nạp
vào Phật giáo. Nhưng ở đây cũng phải nhắc lại thêm một lần nữa, tuy Phật giáo
đã thu nạp nhưng thu nạp với ý nghĩa hoàn toàn khác biệt.
Thật vậy, theo Phật giáo các vị thần đều được xem là thuộc
vào cảnh giới samsara (luân hồi). Vi chính các vị thần vẫn còn vướng mắc trong
sự lầm lẫn ! Dù cho họ có một đời sống lâu dài đi nữa, nhưng khi karma đã cạn,
họ sẽ rơi vào một cảnh giới khác của samsara. Họ không thể thoát khỏi bản chất
có tính cách toàn diện của khổ đau.
- Nhưng tại sao nền triết học ấy chủ trương tìm kiếm sự giải
thoát, lại còn cần đến các vị thần?
- Đức Phật không hề tìm cách bài bác bất cứ một thứ gì. Ngài
chỉ đơn giản đặt mọi sự vật vào đúng vị trí của chúng. Các vị thần không phải
là mục đích cũng không phải là những nhu cầu của Ngài, và đương nhiên không hề
là một đối tượng cho sự nương tựa.
Trong Phật giáo người ta nương tựa vào nguyên tắc của Giác
ngộ, vào những lời giáo huấn đưa đến Giác ngộ, và vào tập thể những người đã chọn
những lời giáo huấn ấy. Đấy là những gì mà người ta gọi là Tam Bảo : Đức Phật,
Dharma (Đạo Pháp) và Sangha (Tăng đoàn).
Đức Phật là nguyên tắc của Giác ngộ, vì thế Ngài là một vị
hướng dẫn ; Dharma là những lời giáo huấn và cách thức tu tập mà Đức Phật đã
khuyên bảo để giúp đưa đến Giác ngộ ; Sangha là tập thể Tăng đoàn, nhất thiết họ
là những tu sĩ, những vị hiền nhân.
Các vị thần được xem như những gì mang tính cách truyền thống
lâu đời : người ta kính trọng các vị ấy như những người láng giềng và xem họ là
những biểu hiện mang tính cách dân gian, những vị ấy rồi sẽ tự xoá mờ, dần dần
từng chút một, trước một mục đích cao rộng hơn. Chính sự bao dung đó đã giải
thích sự thành công của Phật giáo. Đó là một nền triết học thật mềm dẽo đủ sức
để thích ứng với tất cả mọi nền văn hoá.
- Phật giáo không chấp nhận giai cấp trong xã hội. Vậy có phải
Phật giáo chống lại trật tự xã hội của Đạo Bà-la-môn hay chăng ?
- Từ nguyên thủy, chủ đích của Đức Phật không phải là thay đổi
trật tự xã hội. Nhưng chỉ để thiết lập một dòng tu sĩ, nhưng vì vị thế tự đứng
ra bên ngoài thế giới này, nên dòng tu sĩ ấy đã mở cửa đón nhận tất cả mọi cá
nhân, thuộc tất cả mọi nguồn gốc và giai cấp, đúng hơn phải nói là Đức Phật đã
tạo ra một sự dứt bỏ.
- Phật giáo sau đó đã phát triển thật mạnh mẽ trong đế quốc
của vua A-Dục. Tại sao Phật giáo đã chủ trương niềm tin về “vô ngã” lại có thể
phù hợp được với sức mạnh của uy quyền ?
- Nền triết học đó không hề tìm cách thay đổi một xã hội,
nhưng chỉ chủ trương sự biến cải cá nhân trong lòng của mỗi cá nhân : nhưng nếu
vì thế mà xã hội có thay đổi đi nữa, thì đó chính là nhờ từng cá nhân đã tu tập
để tự biến cải tận đáy lòng của chính họ.
A-Dục là một vị đế vương xuất thân từ dòng dõi võ bị ; triều
đại khởi sự bằng chém giết : và chính vào thời điểm đó ông ta đã ý thức được khổ
đau là gì và đã quy y.
Nhưng chúng ta cũng không nên lầm lẫn : quả thật có một huyền
thoại mạ vàng về sự kiện vua A-Dục quy y làm một Phật tử, và đã đem đến thanh
bình và hạnh phúc cho toàn cõi đế quốc của ông. Trong đó có một phần sự thật,
vì thực tế không hoàn toàn chỉ có màu hồng, dù sao đi nữa vua A-Dục cũng là một
vị vua độc đoán...
- Làm thế nào để giải thích Phật giáo đã chinh phục được cả Á
châu lại biến mất ở Ấn độ, trong khi Ấn giáo gần như không bành trướng ra khỏi Ấn
độ nhưng vẫn tiếp tục sinh động trên bán lục địa này ?
- Phật giáo đối đầu với Ấn giáo, giống như là một hình thức
cải tiến của Đạo Bà-la-môn khi Phật giáo tiếp xúc với Đạo này, Phật giáo ăn sâu
vào các cấu trúc xã hội và được chính quyền nâng đỡ. Nhưng về sau đã bị các đạo
quân Hồi giáo tiêu diệt khi xâm chiếm lãnh thổ Ấn độ.
Phật giáo chủ trương thiết lập những Đại học to lớn, chẳng hạn
như Na-lan-đà, gồm hàng ngàn tu sĩ, đấy là nhưng nơi tập trung đông đảo về nhân
sự nên dễ bị tiêu diệt. Ấn giáo dựa vào cấu trúc gia đình vì thế khó bị hủy diệt
hơn (3).
Cũng nên thẳng thắn mà nói : chính những đạo quân Hồi giáo
đã làm cho Phật giáo biến mất ở Ấn độ giữa buổi bình minh của thế kỷ XIII.
------------------------------------------
Chú thích của người dịch:
1- Karma : tức là nghiệp. Kinh sách Tây phương không dịch mà
thường dùng thẳng một số ngôn từ có tính cách đặc thù của Phật giáo dưới hình
thức chữ Phạn. Chẳng hạn như các chữ Dharma, samsara, nirvana, atman v.v… Kinh
sách tiếng Việt quen dùng các từ dịch từ tiếng Hán, và người đọc cũng đã quen với
ý nghĩa của các từ ấy. Tuy nhiên người dịch xin giữ lại các từ tiếng Phạn đúng
như trong nguyên bản của bài viết này, chỉ thêm từ tương đương gốc tiếng Hán giữa
hai dấu ngoặc.
2- Các vị thần ở đây có nghĩa là các thánh nhân, thiên nhân,
thần linh, các đấng thiêng liêng, v.v… được tôn thờ trong Đại thừa Phật giáo. Một
số có nguồn gốc Ấn giáo, một số phát xuất từ các nên văn hoá địa phương tùy
theo quốc gia nơi Phật giáo ph
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét