(Thethaovanhoa.vn) - "Trong phiên họp lịch sử vào ngày 18/3/1975, tướng Giáp đã có quyết định chiến lược lớn cuối cùng trong sự nghiệp quân sự chói sáng của ông, khi ra lệnh tổ chức cuộc tấn công lớn trên toàn chiến trường miền Nam" - L. Pribbenow, cựu nhân viên CIA tại Đông Dương, nhận xét trong một bài viết có cái tên khá đặc biệt: Đợt tấn công chung cuộc của Bắc Việt: cách kết thúc ván có có một không hai (North Vietnam’s Final Offensive: strategic endgame nonparei).
Pribbenow ví von: "Giấy báo tử đến với chế độ VNCH vào ngày 30/4/1975. Nhưng, không nghi ngờ gì nữa, phát súng bắn gục họ đã được bắn ra bởi tướng Giáp từ ngày 18/3 trước đó". Còn, trong cuốn sách Chiến thắng bằng mọi giá, học giảB. Currey đưa ra một so sánh thú vị về cuộc Tổng tiến công Mùa xuân 1975: "Có nhà nghiên cứu gọi đó là sự "sao chép một chiến dịch theo kiểu Mỹ". Nhưng thực tế, không một đạo quân nào của Mỹ lại có thể dựa vào sự giúp đỡ của dân quân du kích và các cán bộ chính trị để tấn công theo cách ấy".
Quyết định độc đáo
Một số nhà nghiên cứu quốc tế cho rằng trong bối cảnh viện trợ quân sự của Mỹ cho Việt Nam Cộng Hoà (VNCH) giảm toàn diện sau năm 1973, bất kỳ một cuộc tấn công lớn nào từ miền Bắc cũng sẽ giành thắng lợi. Tuy nhiên, Pribbenow kịch liệt phản đối quan điểm này, đặc biệt là khi xét tới bối cảnh nguồn viện trợ quân sự cho miền Bắc cũng đang giảm mạnh ở thời điểm tương đương.
"Quân đội VNCH không phải là hổ giấy. Khi gặp phải những vấn đề nghiêm trọng về hậu cần và những lãnh đạo kém năng lực, họ vẫn là một đội quân giàu kinh nghiệm trận mạc và vẫn sở hữu một lượng thiết bị quân sự khổng lồ". Pribbenow viết. "Và, cứ cho rằng sự sụp đổ ấy là không thể tránh khỏi, thì kết cục có lẽ sẽ dai dẳng và đẫm máu hơn nhiều, nếu những người cộng sản chọn một kế hoạch tấn công khác." Theo tác giả này, điểm mấu chốt của chiến thắng 1975 nằm ở sựthành công của chiến dịch Tây Nguyên, "đòn tâm lý choáng váng và đầy bất ngờ mà tướng Giáp đã nện xuống Bộ tổng tham mưu của đối phương".
Đại tướng Võ Nguyên Giáp và các đồng chí lãnh đạo Quân ủy Trung ương theo dõi diễn biến Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975. Ảnh tư liệu TTX |
"Nhiều tư liệu hiện có đều khẳng định: Đại tướng là một trong những người đầu tiên chọn Buôn Mê Thuột làm điểm khởi đầu cho chiến dịch này" - TS Vũ Tang Bồng (Viện Lịch sử Quân sự VN), cho biết. "Thậm chí, theo lời cố Thượng tướng Hoàng Minh Thảo (Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên 1975), ngay từ rất sớm, tướng Giáp đã có sự quan tâm đặc biệt tới Buôn Mê Thuột, điểm yếu nhất trong kế hoạch phòng thủ "nặng ở hai đầu" của VNCH". Trên thực tế, ý tưởng về Buôn Mê Thuột đã thuyết phục được những người chỉ huy chiến dịch, khi đặt cạnh những lựa chọn như Huế, Đông Nam Bộ, Đà Nẵng... cho chiến dịch mở màn.
Những gì diễn ra tại Tây Nguyên trong nửa đầu tháng 3/1975 đã được ghi lại trong hàng trăm công trình nghiên cứu của VN - khi quân đội của tướng Giáp lần lượt chiếm Buôn Mê Thuột và Kon Tum, Pleiku, Phú Bổn. Nhưng, với cái nhìn từphía bên kia, bản thân Pribbenow cũng không tiếc lời khen ngợi "tướng Giáp và các cấp phó của ông".
"Sau này, một vị Đại tướng của VNCH cũng thừa nhận với tôi: ông nhìn thấy ở quyết định đó sự phản ánh học thuyết "tiếp cận gián tiếp", luôn đánh vào chỗ đối phương không ngờ tới của Liddell Hart (Nhà tư tưởng quân sự hiện đại của Anh – TT&VH). Đòn đánh ấy không nhằm vào chủ lực của VNCH, nhưng lại bắt trúng điểm chiến lược yếu nhất mà họ không có quyền để mất" Pribbenow viết. "Việc chiếm Buôn Mê Thuột cho phép quân đội VN lựa chọn bất kỳ nơi để làm mục tiêu tấn công tiếp theo – trong khi VNCH phải vắt óc phán đoán và tiếp tục phạm sai lầm".
Bộ binh và xe tăng tiến vào giải phóng Đà Nẵng. Ảnh tư liệu TTX
Đánh tan 10 vạn quân trong 3 ngày
Trong hồi ký Tổng hành dinh trongMùa xuân Đại thắng, tướng Giáp cũng ghi lại khá rõ cuộc tranh luận gay gắt với Trung tướng Lê Trọng Tấn – người luôn được ông tin cậy và đánh giá rất cao trong số những cộng sự của mình. Theo đó, Đại tướng yêu cầu tướng Tấn, (tư lệnh chiến dịch Quảng Nam – Đà Nẵng), phải tổ chức giải phóng Đà Nẵng trong vòng 3 ngày – trong khi vị Trung tướng này kiên quyết ý kiến phải đánh trong 5 ngày vì "không chuẩn bị kịp". Đại tướng ghi rõ: "Tôi nói, giọng có phần gay gắt: Tư lệnh mặt trận là anh nên tôi để anh ra lệnh. Nếu là người khác, thì tôi ra lệnh: Đánh Đà Nẵng theo phương án chuẩn bị ba ngày. Nếu chuẩn bị năm ngày, địch rút mất cả thì sao?"
"Anh em truyền miệng rằng sau đó Đại tướng còn nói: nếu anh Tấn vẫn muốn đánh 5 ngày thì chỉ có cách thay Tư lệnh". TS Vũ Tang Bồng kể vui. "Thực ra, tướng Tấn cũng có lý. Ông là người dùng binh rất cẩn thận, điềm tĩnh, trong khi Đà Nẵng thời điểm đó là thành phố quân sự lớn thứ 2 sau Sài Gòn và có tới 10 vạn quân dồn về. Nhưng, điều Đại tướng nhìn thấy là sự rối loạn, mất hẳn ý chí chiến đấu của quân đội VNCH".
Cũng cần nói thêm, theo một số ý tưởng ban đầu, quân đội VN sau khi giải phóng Buôn Mê Thuột sẽ khẩn trương tiến dọc Tây Nguyên, tận dụng khí thế để tấn công Sài Gòn rồi sau đó mới "giải quyết" các tỉnh đồng bằng Duyên hải. Nhưng, theo TS Bồng, quyết định mở mặt trận thứ 2 theo trục Huế - Đà Nẵng của tướng Giáp là một thay đổi cực kì quan trọng.
"Tại Huế và Đà Nẵng khi đó có những lực lượng rất lớn của VNCH, trong đó có cả những binh chủng đặc biệt như Lữđoàn Thủy quân Lục chiến. Nếu bỏ lỡ thời cơ, để họ kịp chuyển quân, co cụm về giữ Sài Gòn thì chiến dịch của chúng ta sẽ gặp khó khăn hơn rất nhiều". TS Bồng nói. Thực tế, hoàn toàn trùng khớp với nhận định của tướng Giáp, khi chiến dịch giải phóng Đà Nẵng thành công chỉ sau 3 ngày.
Theo hồi ký Tổng hành dinh trongMùa xuân Đại thắng, khi tướng Tấn hoàn thành chiến dịch, Đại tướng nói vui: "Lẽ ra mình cho cậu 5 điểm (thang điểm Liên Xô), nhưng vì chuyện "3 ngày" nên chỉ cho 3 điểm thôi". Còn Pribbenow đánh giá: "Chiến dịch của VN dựa vào các kỹ năng đánh lừa, nghi binh gây bất ngờ, tiếp cận gián tiếp, đánh lần lượt từng cụm căn cứ - nói tóm lại, một chiến dịch rất trí tuệ. VN cuối cùng đã vươn tới một chiến dịch xứng tầm với một lực lượng quân đội chuyên nghiệp, hiện đại, thứ mà các nhà lãnh đạo cộng sản của họ đã nỗ lực rất lâu để xây dựng."
Nghiên cứu 'binh thư' của Đại tướng Võ Nguyên Giáp (kỳ 10& hết): Một câu trả lời cho ngàn câu hỏi!
(Thethaovanhoa.vn) - "Vì ông là tướng Giáp". Bản thân, câu trả lời ngắn gọn ấy đã đủ là mẫu số chung để trở thành lời đáp cho hàng ngàn câu hỏi mà các học giả quốc tế đặt ra quanh 2 cuộc chiến tranh của VN. Lịch sử VN lựa chọn tướng Giáp, để rồi đến lượt ông lại tạo ra lịch sử, bằng cách đặt lên đó dấu ấn riêng của mình.
"Một trong 25 danh tướng huyền thoại của lịch sử thế giới", "Thiên tài quân sự", "Một vĩ nhân của thời đại"... Hàng loạt nhận xét và đánh giá từ báo chí phương Tây ấy đã được trích dẫn lại, khi tướng Giáp qua đời ở tuổi 103 vào ngày 4/10/2013 vừa rồi.
Nhưng, đặt bên cạnh những so sánh xuyên thời gian với Napoleon, Hanibal, Alechxandros Đại đế, Lawrence hay Kutuzop, đâu là nét riêng ở một gương mặt đã trở thành huyền thoại ngay từ lúc còn sống như tướng Giáp?
Vị tướng đi lên từ “số không”
Câu trả lời rất đơn giản: vì tướng Giáp gắn với lịch sử VN và là một phần của lịch sử VN. Vì Clausewitz hay Lawrence – những người sáng tạo ra các học thuyết quân sự nổi tiếng - không phải mang trách nhiệm nặng nề của một vị Tổng chỉ huy như tướng Giáp. Vì Napoleon và Alechxandros Đại đế không phải gánh trên vai sứ mệnh giải phóng cho cả một dân tộc. Vì Kutuzop, dù rất xuất sắc và được tướng Giáp yêu thích, cũng không phải thực hiện cuộc chiến tranh vệ quốc với những điều kiện chênh lệch khổng lồ như vị Đại tướng của VN.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp quan sát tại trận địa Điện Biên Phủ - trận chiến đưa tên tuổi ông vào lịch sử thế giới. Ảnh tư liệu TTXVN
|
"Không phải vì phong cách xuất sắc và tính trang nhã trong chiến lược của tướng Giáp. Không phải vì những trận đánh nổi tiếng, và cũng không phải vì bản lĩnh được ngợi ca như một người có thể tạo ra những phép màu" - học giả B. Currey nhận xét - "Điều tạo nên huyền thoại về tướng Giáp nằm ở việc ông là vị tướng duy nhất phát động cuộc chiến đấu từ một hoàn cảnh yếu kém trầm trọng về vật tư, tài chính, hậu cần và hoàn toàn không có quân đội. Vậy nhưng, con người ấy vẫn có thể đưa một đất nước nghèo nàn, vượt qua những khó khăn khách quan của hoàn cảnh, cũng như những yếu kém chủ quan về quản lý bên trong, để đánh bại hai nền quân sự lớn nhất của thế giới".
Tướng Giáp, như lịch sử đã chứng minh, là người tự học và tự rút ra kinh nghiệm từ thực tế để hoàn thiện khả năng quân sự xuất sắc của mình.
Sự thực, khi phân tích về sự nghiệp cầm quân của ông, nhiều công trình nghiên cứu quốc tế đã chỉ ra những điểm chưa hoàn thiện trong các chiến dịch chống Pháp năm 1951 tại vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng. Tuy nhiên, thực tế ấy cũng chỉ để các học giả này đưa ra một nhận định: từ một thầy giáo dạy sử không được đào tạo chính quy về quân sự, tướng Giáp đã có khả năng phi thường để học ngay từ những trải nghiệm của chính bản thân mình.
"Những thử thách phải vượt qua khiến ông trở thành một bậc thầy về chiến thuật và chiến lược. Ông sáng tạo một kiểu chiến tranh mà cả Pháp và Mỹ không thể đánh thắng"- Currey viết.
Nhưng, khác với sự lý tính của các học giả phương Tây, những nhà nghiên cứu vẫn có cách giải thích riêng của mình về thiên tài chiến thuật ở vị Đại tướng của mình.
"Phân tích kĩ, chúng ta sẽ thấy tất cả những thiên tài quân sự của VN như Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, Lý Thường Kiệt, Quang Trung... đều gắn liền lối đánh của mình với nghệ thuật chiến tranh toàn dân" - Đại tá Lê Thế Mẫu (cựu chuyên gia Viện Chiến lược Quốc phòng), nói - "Thiên tài của Đại tướng là biết vận dụng tư tưởng quân sự ấy trong nghệ thuật cầm quân của mình, cộng cùng những nguyên tắc mà ông sớm học được từ chiến tranh hiện đại".
Và di sản về “binh thư” Võ Nguyên Giáp
Năm 1975, khi kết thúc chiến tranh, tướng Giáp cũng đã dành nhiều thời gian để nghiên cứu lịch sử chống ngoại xâm, đồng thời viết một số luận văn về lịch sử quân sự và những anh hùng dân tộc. Theo GS Phan Huy Lê (Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử VN), trong những năm tháng này, tướng Giáp luôn lưu ý giới nghiên cứu cần tìm hiểu chuyên sâu về những khái niệm đã được tổng kết trong lịch sử VN như "ngụ binh ư nông" thời Lý, "dân binh" và "dĩ đoạn chế trường" thời Trần, "lập cước chi địa" và "dĩ nhược chế cường, dĩ quá địch chúng" thời khởi nghĩa Lam Sơn. Những khái niệm ấy, theo một nghĩa nào đó, là sự đúc kết một số tư tưởng và đặc điểm nghệ thuật quân sự VN trong lịch sử.
Nhưng, bản thân, cách cầm quân của tướng Giáp trong hàng chục năm cũng đã là một di sản độc đáo của nghệ thuật quân sự VN trong thời hiện đại. Như lời của nhà nghiên cứu Currey: "Tướng Giáp không bao giờ quan tâm tới các đáp án giả định từ trước như các sĩ quan được đào tạo bài bản. Ông tiếp cận vấn đề một cách linh hoạt. Và, mỗi vấn đề đòi hỏi tướng Giáp phải có những câu trả lời mới từ kinh nghiệm thực tế. Dần theo thời gian, những câu trả lời ấy được nâng thành nguyên tắc chỉ đạo độc đáo của riêng ông. Mà, theo một nghĩa nào đó, những thứ độc đáo được kiểm chứng theo thời gian thì sẽ trở thành học thuyết".
Theo Đại tá Lê Thế Mẫu, một số tác phẩm viết về chiến tranh của tướng Giáp đã được các trường quân sự của Mỹ đưa vào giáo trình giảng dạy của mình, như một đối chứng để tham khảo về cuộc chiến tranh mà họ từng sa lầy và không thể giành chiến thắng. Thậm chí, như lời một số nhà nghiên cứu khác, hiệu quả từ cách vận hành chiến tranh nhân dân của tướng Giáp đã gây ấn tượng với người Mỹ mạnh tới mức trong suốt thời gian chiến tranh VN diễn ra, họ có hẳn một đơn vị chuyên nghiên cứu các tư liệu liên quan hoặc bài viết của ông. Để rồi, dựa trên các phân tích, đánh giá, và nhận xét của Đại tướng, những chuyên gia Mỹ đã nghĩ tới việc xây dựng một phương pháp luận về tổ chức và tiến hành các cuộc nổi dậy hoặc chiến tranh du kích, để sau này có thể áp dụng cho các lực lượng đặc biệt Mỹ trong trường hợp tại nước ngoài.
Phải đúc rút thành “cẩm nang”
"Sự thực, do điều kiện khách quan, đến giờ chúng ta vẫn chưa có những công trình nghiên cứu thật đầy đủ và toàn diện về nghệ thuật quân sự của Đại tướng. Tôi nghĩ, đã đến lúc, các học giả nên tổng hợp, tìm hiểu kĩ những gì Đại tướng đã làm cũng như những đề xuất, lưu ý về hướng phát triển nghệ thuật quân sự VN trong tương lai, để đúc rút thành một cẩm nang có độ dày vừa phải và đưa vào sử dụng" - chia sẻ của TS Vũ Tang Bồng (Viện Lịch sử Quân sự VN) với TT&VH có thể coi là lời kết của loạt bài dài kỳ này.
Hoàng Nguyên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét