Thứ Hai, 4 tháng 5, 2015

Vang danh xứ người (Tiểu luận của Hồ Anh Thái)

Câu ca dao này có dạo lan truyền trong cộng đồng người Việt ở châu Âu: Ăn nhanh, đi chậm, hay cười / Hay mua đồ cổ là người Việt Nam.
1. Ăn nhanh: trong nước với nhau, đã thành quen, ít để ý, nhưng ra nước ngoài thì mới thấy lộ. Tây với ta ngồi ăn trong cùng một quán, thì ta ăn sao mà nhanh, như chảo chớp. Ăn cho xong rồi đi làm việc khác, một chủ trương, một triết lý, coi ăn uống chỉ là việc đệm giữa những công việc quan trọng hơn lớn lao hơn. Sau khi đã bỏ công sức lao động, thế thì còn sự hưởng thụ nào quan trọng hơn là ăn nữa? Khi ấy ăn nên là một sự thưởng thức, ăn nhẩn nha, ăn theo kiểu thụ hưởng, miếng ngon trong miệng thì phải biết là ngon. Đấy là thái độ hiện sinh mà nhà Phật vẫn thường khuyên. Đừng nên vừa nhai vừa nghĩ những điều đã qua và những việc sắp làm, ăn mà có khi quên mất là mình đang ăn cái gì. Chiến tranh, nghèo đói, vất vả nhiều, đến lúc sướng thì không biết hưởng cho trọn. Dấu ấn của một thời đầu tắt mặt tối chưa xa. Nó lan truyền thành một tính cách cộng đồng, ngay cả người không vất vả cũng lây nhiễm tính vội vàng gấp gáp trong ăn uống.


2. Đi chậm: cũng là một căn tính tiểu nông, vác cuốc đi thăm đồng thì có gì phải vội vàng, đi sau con trâu từng bước cày bừa nặng nề không thể vội vàng. Đến khi ra phố phường, thành người phố phường rồi, đi trên vỉa hè cũng chẳng phải vội vàng. Sang đến nước bạn thì xem kìa, đi đứng dềnh dàng như rùa bò trên đường. Người Tây người Nhật người Hàn đi vùn vụt trên vỉa hè, vượt qua ta rất lâu rồi mà ta vẫn cụm lại một đống với nhau lê chân chậm chạp đằng sau. Không thể đổ cho sải chân ta ngắn, ngắn nhưng vẫn có thể đi nhanh. Đây đang nói tốc độ đi chậm, nhịp độ đi chậm, tư duy chậm, trung ương đầu não chỉ đạo chậm thì xuống đến địa phương bàn chân bước đi cũng chậm.
3. Hay cười: đúng là nhiều khi bí quá, ở thế khó xử quá, ở thế trớ trêu quá, chỉ còn biết cười. Đang đi trượt chân ngã, còn đang tô hô trên đường, chưa đứng dậy được, cười. Giẫm lên chân người khác, phản ứng đầu tiên phải là câu xin lỗi, thì lại cười. Người nước ngoài rất lạ, rất phẫn nộ, sao giẫm lên chân người ta lại cười, sao ngã lại cười. Thì thế, cái cười vô duyên thực ra là như xin lỗi, như để đỡ ngượng. Người ta nói gì mình không hiểu, tất nhiên là chỉ còn biết cười. Không hẳn là cười, có nhiều cái cười đúng ra chỉ là nhe răng.
4. Cười là một cách, gây ồn ào nơi công cộng là cách khác. Một nhóm người Việt đi với nhau là chỉ thấy xoe xóe chiu chiu tiếng Việt trong tai người nước ngoài. Ở nơi công cộng, bến xe bến tàu sân bay, vẫn còn đó thói quen gọi nhau qua cánh đồng, trên thuyền trên ghe trên xuồng, phải gọi to nói to nghe mới thủng. Một cô đi máy bay bị nôn, mỗi lần rặn ra nôn là cô ôi ôi nghẹn ngào như khóc, ôi ôi như bị bóp cổ. Cả khoang máy bay phải nghe, cả khoang máy bay ai cũng tưởng bệnh trạng của cô đã đến mức phải hỏi xem hành khách có ai là bác sĩ xin hãy đến giúp đỡ. Cộng đồng làng xóm, một người hắt hơi sổ mũi thì phải hắt hơi thật to để các nhà trong xóm biết mà chạy sang. Không ai sang thì cũng coi như đánh tiếng cho cả xóm biết là tôi đang ốm đây. Chuyến ấy tôi đi cùng máy bay với cô này từ Đài Bắc quá cảnh về Hà Nội, máy bay hạ cánh, thấy cô đứng lên cười, người Việt hay cười, nói lưu loát giọng đồng bằng Bắc bộ: Chẳng hiểu thế nào, mọi lần iem vẫn đi máy bay thoải mái.
Vẫn là chuyện âm thanh của người Việt, ngồi dự chiêu đãi ngoại giao, một ông sứ vẫn có thể ợ một cái thật to mà không xin lỗi như tập quán xã giao phải sorry. Người Việt tập quán Việt, việc gì xin lỗi ai. Xỉa răng, cắm cái tăm vào miệng đi khắp đường phố trước mặt Tây mặt Mỹ, công khai, phơi lộ, ấy thế nhưng khi xỉa răng thì lại lấy tay che miệng, như che một cái buồng thay quần áo. Cái che tay này người ta mới thấy lạ, đâu cần đến thế, chỉ cần anh xỉa răng mà đừng ngoác miệng ra là đủ rồi.
5. Hay mua đồ cổ: đồ cổ là nói cho sang, đồ cổ bao giờ cũng đắt tiền, đúng ra người Việt có tính sưu tầm đồ cũ. Đồ xé cần hen. Quần áo si đa. Những đồ rẻ tiền mua về nước bán để kiếm tí lợi nhuận. Đấy là chuyện thời trước, thời nay quần áo Tàu còn rẻ hơn đồ si đa xé cần hen. Nhà ngoại giao được nhà nước cấp cho cả nghìn đô mua trang phục, trang phục là công cụ lao động của nhà ngoại giao, ấy thế vẫn không chịu đầu tư vào công cụ lao động, ấy thế vẫn mua bộ vét Tàu dăm ba chục đô, vẫn mua quần áo đồng hạng một vài đô ở chợ đồ cũ. Giới quan chức trong phòng khách ngoại giao chỉ thoáng nhìn là biết bộ củ ông khoác trên người đáng mấy tiền, chắc chắn mua ở chợ đồ cũ. Ông ấy không nghèo, ở Việt Nam ông có một căn nhà mặt phố đang cho thuê và một miếng đất nghỉ cuối tuần ở quê.

Không có nhận xét nào: