Hưng Hóa, Phú Thọ, đầu mùa hè
1970. Chúng tôi chuẩn bị ôn thi hết lớp 9.
Một buổi trưa không ngủ được. Nằm
bên cạnh là thằng bạn thân – Tiến Dũng. Hắn cũng trằn trọc lăn qua lăn lại, mắt
thao láo nhìn qua cửa sổ, giống tôi. Cành phượng vĩ với những chùm hoa như lửa đong
đưa theo gió. Ngoài trời nắng hoe vàng và ngập tràn không gian là âm thanh của tiếng
ve đầu hè như mời gọi thúc giục… Tôi huých đầu gối vào cái mông to sụ của Dũng:
“Không ngủ à?”. Hắn giật thót mình quay lại: “Ừ! Chẳng hiểu sao mình không thấy
buồn ngủ”. “Bọn mình đi lang thang đi”, tôi khơi mào. Chỉ đợi có thế vì nhìn
mắt hắn là tôi biết, mơ màng lắm. Hắn đống ý ngay, đưa ngón tay lên miệng: “Suỵt!
Khẽ thôi, không thầy Chương biết thì chết”. Chúng tôi chuồn theo bức tường phía
cổng phụ. Tường không cao lắm tôi thao tác ngon ơ, loáng cái đã ở phía ngoài.
Uỵch! Nghe như tiếng bao gì đó
rất nặng rơi. Nhìn lại phía sau thấy thằng bạn lồm cồm bò dưới đất. “Chỉ tại
cái mông chết tiệt, người qua hết, còn lại mỗi cái mông, đâm ra tao bị ngã”.
Quả thật, thằng bạn tôi “mẫu mã” cũng khá, chỉ duy nhất có cặp mông hơi bị xệ
nên tôi hay gọi hắn là Dũng “mộng năng”.
Chúng tôi đi qua tiệm sửa xe Quý Long
giữa phố. Vẫn thấy tay chủ quán cặm cụi “tận thu”. Ngược lên phía trên thị trấn,
đối diện với Bách hóa tổng hợp phía bên kia đường, thấy sau tủ kính một thân hình béo phị, trần
trùng trục, đang cúi đầu với cái kính lúp đeo bên mắt. Chắc lại một “pan” khó đây?
Chiếc đồng hồ “Nikle vừa nghe vừa lắc” cũ rích từ thời thuộc pháp của tay khách
nào chơi xỏ hay tiếc “đồ cổ” đem sửa đi để làm kỷ niệm chăng? Tôi nghĩ thế và
tủm tỉm cười khi nhìn lên tấm biển quảng cáo với cái tên đầy ấn tượng “Tiệm
chữa đồng hồ Vĩ Đại”.
Thị trấn vắng hoe. Chúng tôi vòng
trở lại. Hai bên phố hình như mọi người cũng chìm trong giấc ngủ trưa. Cả hàng bàng
và phượng vỹ bên đường cũng xõa lá xuống như mơ màng. Nhưng bỗng buổi trưa hè
êm ả, thơ mộng bị phá hỏng bởi âm thanh lạc lõng của tiếng gõ chát chát, cạch
cạch… của tay thợ gò cuối phố. Lạ thật
chỉ có ba vị đại diện cho “giai cấp” công nhân của cái thị trấn này là còn hăm
hở làm việc giữa trưa hè lãng mạn thế này. Còn tuyệt nhiên mọi sinh vật đều
lặng im, mơ màng thưởng thức khoảnh khắc giao mùa tuyệt vời. Chả trách ông Mác khẳng
định, chỉ có giai cấp công nhân mới lãnh đạo cách mạng được cũng phải!
Vòng theo lối cổng chính phía nhà
thờ đổ, có cái cửa hiệu may của tay Bảo hoàng trọc đầu (ngày xưa theo Tây đánh
ta). Tôi gợi ý: Lướt qua tiệm lão trọc thợ may, ngắm con gái lão một tí cho thư
thái rồi về học cho nó vào.
-
Sao ý mày giống tao thế! - Thằng bạn hưởng ứng nhiệt
liêt.
Đi qua đi lại đến hai vòng mà
không thấy con gái của lão thợ may đâu, chỉ thấy thấp thoáng sau chiếc bàn may
là cái đầu trọc chết tiệt nhấp nha, nhấp nhổm đang đo đo, vẽ vẽ. Thế là hỏng toi
mất một trưa hè tuyệt đẹp!
Không lẽ vòng lại đến ba lần, máu
sỹ nổi lên. Cóc thèm nữa. Theo cổng chính, chúng tôi trở về lớp. Sau này mới biết,
chả riêng gì chúng tôi, mấy bác khóa trên cũng “quần nát” cổng nhà lão trọc. Nghe
nói có bác còn rủ rê được con gái lão ta đi chơi tối nhưng rồi sau này do ngại
lý lịch nên ngãng ra. (Lập trường giai cấp ra “phết”!). Nhưng riêng tôi, thấy bác
nào đó xử sự như thế nó có vẻ cực đoan thế nào ấy. Giá là tôi mà có được cơ hội
như thế thì tôi sẽ khác, tôi phải “đấu tranh” giai cấp đến cùng, phải “triệt để”
cách mạng.
Dũng lên phòng ngủ tiếp, còn tôi
lén ra sau nhà “giải quyết nỗi buồn”. Đang nép người vào bức tường dưới tầng
trệt, phía trong là lớp học “xả hơi”, bỗng nghe thấy tiếng lạch cạch, xoẹt xoẹt
như tiếng giũa sắt. Nhìn vào trong, thấy Chu Quang đang ngồi chăm chú. Khi lại
gần mới biết, ông bạn đang làm lưỡi câu cá. Quang học lớp khác. Chúng tôi không
chơi thân với nhau, Quang ít tham gia các nhóm nghịch ngợm như tụi tôi, ngay cả
thể thao thể dục bạn cũng chẳng đoái hoài. Nhưng đặc biệt bạn rất khéo tay. Quang
không thật nổi trội trong khóa nhưng bạn là một học sinh khá và là một trò
ngoan.
Tôi từ từ tiến lại phía sau Quang
tay đập mạnh vào vai rồi quát:
- Trưa không ngủ xuống đây làm gì?
- Tôi giả giọng thày Ninh.
Quang giật thót người, quay lại,
định thần một lúc, mặt Quang đỏ lên rồi nói như chửi:
- Tao làm gì thì việc đ. gì đến
mày?
Tôi hơi ngỡ ngàng trước phản ứng
của Quang, rồi hai đứa cãi nhau. Sợ làm um lên không có lợi, hai thằng như hai
hiệp sỹ thách đấu, hẹn tối sẽ gặp nhau ở chuồng bò phía cổng trường để giải
quyết chuyện “xúc phạm” danh dự của nhau. Rồi hai đứa giải tán về lớp . Vừa lúc
kèn báo thức chiều vang lên.
Đúng hẹn, tôi rủ thêm Tô Tâm. Tôi
rất quý Tâm vì Tâm hiền lành, xuề xòa, nhiều khi đến luộm thuộm. Tâm thông minh,
lười học nhưng học vẫn rất khá. Tâm chơi nhiều môn thể thao, đặc biệt là bóng
bàn và bóng đá. Nghe nói Tâm học ở trường Học sinh miền Nam từ nhỏ nên tôi nghĩ
chắc võ nghệ cũng khá. Tôi rủ Tâm đi theo hỗ trợ “chuyên môn”nếu có bất trắc
xảy ra. Nghe tôi đặt vấn đề, Tâm nhiệt tình nhận lời.
Trời tối thui, mùi phân và nước
đái bò thoang thoảng. Hai thằng tới “đấu trường” chờ một lúc mà không thấy đối
phương đến. Hay Quang thay đổi ý định rồi? (Thật may cho mình, tôi nghĩ bụng).
Vừa vặn lúc đó thì Quang tới cùng
với một ông bạn. Tôi không nhìn rõ ai. Tâm ghé tai tôi thì thào: “Hồng Lồi”.
Hắn là một hảo hán của khóa tôi. Tôi chột dạ. Hắn mà giao du với Hồng Lồi thì
cái khoản “kia” (võ nghệ) phải khá lắm. Chắc
tôi bị nốc ao mất. Tôi bắt đầu mất hết tự tin và giao động.
Sau khi giao hẹn phương thức thi
đấu, chúng tôi nhập cuộc. Thấy Quang lưng cúi xuống hình thước thợ, đầu gối hơi
thấp, một tay vắt chéo đặt trên lưng, còn một tay đưa ra phía trước, bàn tay
chụm lại hướng về phía tôi. Nhìn từ xa các bạn sẽ thấy nó giống như con cò đang
vươn cổ đứng “ị”. Rõ ràng đây là một kiểu đứng “thế” của bậc cao nghề. Kệ đối
phương, tôi cũng hạ thấp người, chân đảo chữ chi như Ronando làm động tác giả
khi lừa bóng, còn tay thì quay như “chong chóng”. Múa may một hồi chả thấy đối
phương lao vào, chỉ thấy Quang di chuyển cái “cổ con cò” hướng theo sự dịch chuyển của tôi. Được một
lúc mệt quá, một phần cũng chóng mặt do tự mình nhìn hai tay múa trước mặt, tôi
ngã vật ra (tuy nhiên vẫn cẩn thận la to “giải lao”).
Tâm lao vào tôi, tay cầm tàu lá
chuối vừa quạt vừa nói:
- Ông phí sức quá, đối phương nó
chả mất tí sức nào. Ông múa quá nhiều, mồm thì thở hồng hộc như bò đẻ thế kia
thì đánh đấm cái gì.
Sau khi giải lao, chúng tôi vào
hiệp hai. Vẫn với chiến thuật cũ. Bị thúc bởi hai võ sư đứng ngoài “vào đi, vào
đi…”. Thế là tôi nóng máu, lao vào đối phương. Đầu tiên còn mở mắt nhưng thấy
trời tối chẳng nhìn thấy gì nên tôi nhắm tịt mắt lại. (Mở cũng chả có tác dụng,
có khi đối phương thụi cho một quả vào mắt thì cứ gọi là toi!).
Cứ thế tôi lao vào loạn xạ, tay
văng tứ tung, trúng đâu thì trúng. Tự nhiên nghe thấy tiếng ai (chẳng biết có
phải của Tâm?):
-
Đá đi, đá nữa chứ! sao không dùng chân à?
Thế là tôi giật mình và vội vàng không
dùng tay nữa, chuyển sang dùng chân. Cứ thế tôi đá, đá lung tung. Bỗng thấy bét
một cái, người bỗng nhẹ bẫng và mùi cứt bò thì xộc lên. Kệ, tôi cứ đá.
Bỗng tôi lại nghe thấy:
-
Sao lại chỉ có đá, không đấm à?
Mẹ nó, cái anh võ nghệ này phức
tạp thật, mải chân thì quên bố nó tay, đến khi nhớ tới tay thì lại quên phắt
mất chân. Được khoảng ba bốn phút gì đó hai thằng tôi ngã vật ra. Tiếng Hồng Lồi
la lớn: Xong!
Hai thằng tôi nằm lăn dưới đất, miệng
thở hồng hộc một lúc. Ngồi dậy bắt tay nhau rất quân tử rồi theo hai hướng chuồn
về doanh trại. Trên người bê bết cứt bò. Tôi lao ra giếng tắm và trở lên phòng như
không có việc gì xảy ra.
Đêm nằm tụ dưng thấy đau ê ẩm ở
mu bàn tay phải. Sáng hôm sau, tập trung lên lớp. Tôi lén nhìn sang lớp của
Quang, thấy một mắt của Quang sưng to và đỏ trong lòng. Tôi trào nên niềm
thương bạn cùng nỗi lo không biết Quang có sao không?
Mấy ngày sau, mắt bạn trở lại
bình thường tôi mới yên tâm. Rồi mọi việc cũng qua. Chúng tôi chả giận gì nhau.
Tuổi thơ dễ quên những chuyện vặt vãnh. Năm học cuối cùng ở Trường Trỗi của
chúng tôi cũng kết thúc.
Trường giải tán. Mỗi đứa mỗi
phương, sống - chết trong chiến tranh, rồi mải miết mưu sinh trong thời bình,
chẳng còn đâu thời gian để dò hỏi tin nhau. Cho mãi tới khi cầm trên tay cuốn
“Sinh ra trong khói lửa” – tập 2; lần giở tới trang 142 bài “Chu Tấn Quang rực
sáng tên anh” của tác giả Trần Kiến Quốc và bài “Lá thư trước ngày ra trận” của
Ban biên tập.
Đọc đi đọc lại, ngắm nhìn mãi tấm
hình bạn mà tôi không sao cầm nổi nước mắt. Quang đứng đó, khuôn mặt măng tơ
bình thản, bộ quân phục màu ô-liu chững chạc, khẩu AK đeo bên vai, bàn tay nắm
chặt thân súng.
Quang gác bút nghiên vào chiến
trường thì vào thời điểm ấy chúng tôi lại ngược trở ra, quay lại trường học tiếp. Hai chúng tôi đi
ngược chiều nhau, nhưng chỉ có điều Quang đi, đi mãi.
Quang trở thành người anh hùng
trong chúng tôi. Anh ngã xuống cho chúng tôi hôm nay, cho con cháu chúng tôi
ngày mai…
Viết lại một kỷ niệm về Chu Quang,
thắp nén nhang tạ ơn anh và các đồng đội trong cái nhớ cồn cào mùa hè cuối cùng
ở Trường Trỗi - Hưng Hóa năm 1970. Quang trẻ mãi trong tôi như tấm hình của anh
ôm súng đứng kia, một người lính.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét