Cái chết của Stalin vào tháng 3 năm 1953 là một chấn động lớn đối với khối chính trị Cộng Sản, khởi sự cho một cuộc chiến tranh giành quyền lực tại điện Cẩm Linh và tạo nên bất ổn trong giới lãnh đạo của các nước trong khối Đông Âu. Phản ứng của tôi, cũng như phản ứng của mọi tín đồ của Stalin, là một nỗi buồn vô hạn pha lẫn với cảm giác hỗn độn ngổn ngang. Chúng tôi sống quá lâu dưới sự hướng dẫn của Stalin nên cuộc sống sau cái chết của ông khó mà mường tượng.
Ulbricht hy vọng vào thắng lợi của các lực lượng cứng rắn nhất trong các lực lượng cứng rắn thân cận Stalin. Để có được sự hỗ trợ của thể chế mới, ông nhất nhất theo đuổi chính sách "tiến nhanh lên xã hội chủ nghĩa", có nghĩa là sưu thuế cao và trợ cấp xiết chặt, khiến cho các xí nghiệp tầm cỡ nhỏ bị đình trệ và các xí nghiệp tự túc khánh tận. Các nông trại và các hãng nông nghiệp phải điêu đứng vì phải thình lình theo chiều hướng kinh tế xã hội chủ nghĩa toàn diện. Sinh họat tôn giáo của giáo hội Công giáo sau đó bị đình chỉ.
Chính sách này gặp sức kháng cự mãnh liệt. Các nông dân và các nhà sản xuất nhỏ phản ứng bằng cách làm việc không có hiệu năng hoặc, nếu họ thoát tội, chẳng làm gì cả. Tháng Chạp năm 1952, Thủ Tướng Đông Đức, Otto Grotewohl, cảnh báo nguy cơ thiếu hụt thực phẩm và những gia dụng cần thiết. Nhưng Ulbricht chẳng thèm để ý. Ông đánh giá những kháng cự chống lại kế hoạch của ông qua lăng kính của chủ nghĩa Stalin chân chính, theo đó cuộc đấu tranh giai cấp sẽ gia tăng cường độ và tốc độ khi những thay đổi chuyển dứt khóat sang xã hội chủ nghĩa.
Vào mùa Xuân năm 1953, lệnh gia tăng chỉ tiêu 10 phần trăm trong sản xuất được ban hành cho các nhà máy, công xưởng và công trường xây cất lớn, kèm theo giá cả tăng vọt của các lọai thực phẩm căn bản. Không chịu đựng được gánh nặng của những biện pháp bất công đặt để từ trên xuống, quần chúng bắt đầu than phiền công khai tại các hàng quán và các cơ xưởng. Bốn tháng đầu năm 1953, hơn 120.000 người trốn chạy Đông Đức. Điều này cũng xảy ra ba mươi sáu năm sau, năm 1989; trong cả hai trường hợp, giới lãnh đạo quá sơ cứng để phản ứng trước cảnh đào thoát và không làm gì hơn ngoài việc oai dũng trách móch. “Chúng ta sẽ trong sạch hơn khi bọn kẻ thù giai cấp ra đi”, Ulbricht nghe đâu đã nhận định như vậy khi các công nhân cơ xưởng, các giáo viên, các kỹ sư, các bác sĩ và các y tá gia nhập đoàn người ra đi.
Lo ngại cho sự bất ổn có thể dẫn đến sự xụp đổ hoàn toàn của quốc gia Đông Đức và bực dọc vì sự cứng đầu của Ulbricht, Moscow can thiệp. Lavrenti Beria, lúc đó đang tranh giành quyền lực trong giới lãnh đạo sau cái chết của Stalin, đảm trách việc soạn thảo một tài liệu nhan đề "Biện Pháp Để Cải Thiên Tình Trạng tại Nước Cộng Hòa Dân Chủ Đức". Sự kiện điện Cẩm Linh thú nhận tình trạng này trong khối Đông Âu xét ra ngày nay là một thú nhận đáng ngạc nhiên trước thời kỳ "glasnost" khá lâu.
Giống như những cậu học trò ngỗ nghịch, giới lãnh đạo của Bộ Chính Trị chúng tôi được mời sang Moscow và được lệnh phải đem ý kiến của Beria ra thực hành sớm chừng nào hay chừng đó. Điều này có nghĩa là phải khuyến khích các xí nghiệp nhỏ, bỏ rơi kinh tế điều khiển của Ulbricht và nới rộng những hạn chế hà khắc chẳng hạn như đối với những «kẻ thù nội tại » của chủ nghĩa, trí thức tiến bộ và giáo hội Công Giáo. Mặc dù giới lãnh đạo Đông Đức không lấy gì làm hứng thú, mục đích của Beria là nuôi béo Đông Đức để bán cho Tây Đức hầu nước Đức có được quy chế trung lập họăc ngay cả quy chế phi quân sự.
Từ những ngày đầu cho đến cuộc nổi dậy năm 1953 tại Đông Bá Linh, tôi nghỉ mát tại Biển Baltic, đọc tiểu thuyết Hemingway và chơi đùa với các con. Đối với cấp lãnh đạo của một cơ quan tình báo thú nhận điều này không lấy gì làm xây dựng cho lắm. Những ngày nghỉ hiếm hoi này có được là nhờ sự can thiệp của Wilhelm Zaisser, cấp trên của tôi. Ông gay gắt với tôi khi tôi thúc dục rất nhiều lần về tình trạng tài chánh nghèo nàn của cơ quan tình báo hải ngoại.
“Mischa, có những điều quan trọng đang diễn ra ngay lúc này”, ông nói và rồi để xoa dịu “Anh đã không lấy ngày nghỉ từ bao lâu rồi? Anh lái xe đến Nhà Nghỉ Mát Xanh, rồi chúng mình sẽ tính”.
Thật là một vinh dự lớn cho tôi khi tôi được mời đến Nhà Nghỉ Mát Xanh tại Prerow, nơi bồi dưỡng của Bộ An Ninh trên vùng biển Baltic. Tại đây, trong ngôi biệt thự dacha khang trang của chính phủ, tôi được biết đến lời thú nhận hoảng hốt đầu tiên của Bộ Chính Trị ngày 16 tháng 6. Đó là một bản thông báo trong đó cả Bộ Chính Trị lẫn chính phủ chấp nhận sai lầm trầm trọng và tuyên bố thay đổi ngược lại tất cả những biện pháp gia tăng sản xuất và giá cả thực phẩm. Đầu tư vào kỹ nghệ nặng bị cắt giảm, sản xuất sản phẩm tiêu dùng gia tăng và các cơ sở tư nhân đã bị chính sách khắc nghiệt của Ulbricht buộc phải đóng cửa nay được phép mở lại. Đây là một bước ngọăt chữ U của Ulbricht, nhưng đã quá trễ.
Vào sáng ngày 17 tháng Sáu, Đài Phát Thanh Khu Vực Hoa Kỳ (Radio in the American Sector – RIAS) thông báo các công nhân xây cất đang tiến từ đại lộ Stalinallee đến Dinh Các Bộ (cũng là nơi trước đây Bộ Hàng Không của Hermann Goering tọa lạc thời Đức Quốc Xã). Các công nhân đòi hủy bỏ những chỉ tiêu mới trong sản xuất kỹ nghệ và cải thiện lương bổng và điều kiện làm việc. Tòa nhà được cảnh sát ngăn rào và tình thế rất là căng thẳng. Các công nhân đình công mời gọi Ulbricht và Grotewohl. Fritz Selbmann, Bộ trưởng Bộ Kỹ nghệ, xuất hiện để chấn an đám đông, nhưng vô hiệu quả.
Có những ý kiến khác nhau về mức độ can thiệp của cơ quan tình báo Tây Âu, nói cho chính xác hơn các mặt trận Tây Đức hàng đầu do Hoa Kỳ hỡ trợ, vào việc xúi giục cuộc nổi dậy này. Đã có những xâm nhập trong các xí nghiệp và cho những ai mong muốn sự sụp đổ của Tây Đức, đưa đến thống nhất hai nước, theo diễn biến của những ngày này đây là một cơ hội lớn. Nhưng ở đây lối quản lý kinh tế tồi dở của Đảng và tính chất lãnh đạo đàn áp của Ulbricht đã khiến dẫn đến tình trạng này. Ulbricht sau đó cũng cố gắng muốn xuất hiện, nhưng ông không đương đầu với đám biểu tình, lúc đó đang gào thét "Đả đảo Spitzbart!" (Đả đảo Râu nhọn!), họ liên tưởng đến chòm râu cằm nhọn của ông, trau truốt theo kiểu Lê-nin. Ông lựa cách xuất hiện tương đối an toàn hơn trong một cuộc hội họp với các thành phần họat động để trả lời; tại đây phong cách cục mịch độc đoán của ông biến mất, ông tỏ ra lập lững và thiếu tập trung.
Đến chiều tối, Đài Phát Thanh Vùng Hoa Kỳ đóng vai trò điều hợp các biến chuyển, kêu gọi biểu tình và thông báo rõ thời điểm và địa điểm. Các hãng xưởng lần hồi gia nhập cuộc đình công. Đoàn người biểu tình kéo nhau về công trường Postdamer Platz của Bá Linh, nơi cả bốn vùng kiểm soát của Đồng Minh gặp nhau. Từ phía Tây, những nhóm gào thét đòi lật đổ chế độ Cộng Sản cũng đang tiến đến Cổng Brandenburg. Một giờ chiều, quản trị viên Xô Viết của thành phố tuyên bố thiết quân luật và xe tăng di chuyển vào thành.
Tôi quyết định trở về Bá Linh. Khi tôi đến gần thành phố Neustrelitz, khoảng giữa đường từ bờ biển Baltic đến Bá Linh, xe của chúng tôi bị quân đội Xô Viết chặn tại một đọan đường. Thẻ căn cước đặc biệt của tôi tỏ ra vô dụng. Mặc dù chúng tôi phản đối, chúng tôi bị giam giữ với các "phần tử đáng nghi" trong một căn phòng của trạm kiểm soát. Tại đây tôi rủa thầm vài tiếng đồng hồ và tự hỏi ai là người quản lý thực sự phần đất này của nước Đức. Nhờ về kiến thức tiếng Nga, trong đó có cả những tiếng lóng nặng nề, cuối cùng tôi được phép nói chuyện với cấp chỉ huy, tự giới thiệu mình một cách minh bạch và tiếp tục cuộc hành trình.
Sau đó tôi về đến nhà tại khu Pankow của Đông Bá Linh, khu vực thành phố nơi cấp lãnh đạo ở. Các công nhân từ Bergmann-Borsig, một tập đoàn sản xuất các máy móc dụng cụ lớn dùng cho kỹ nghệ nặng và vật liệu gia dụng, đi ngang trước nhà tôi và cha tôi thoát hiểm trong đường tơ kẽ tóc, suýt bị đám đông đánh tại trung tâm thành phố. Ông chắc chắn phần đông thành phần thanh niên biểu tình đến từ Tây Bá Linh và ông hồi tưởng đến bọn áo nâu tràn đầy thành phố thời buổi ban đầu của Hitler. Bây giờ lối phát ngôn này có thể bị đánh giá là kiểu tuyên truyền Cộng Sản, nhưng tưởng cũng không kém phần quan trọng nhắc nhở những biến cố trên xảy ra chỉ có tám năm sau sự sụp đổ chủ nghĩa Quốc Xã tại Đức, và là điều rất là thường tình khi người ta cảm nhận, mượn lời của Bertolt Brecht, "con đĩ đã đẻ ra nó vẫn còn muốn động cỡn."
Chúng tôi sửng sốt vì sức bạo động và lòng hận thù dâng cao xung quanh chúng tôi. Đối với những ai như tôi sống trong lòng của xã hội mới này đây là một bừng tỉnh khó khăn để nhận thức hệ thống chúng tôi hàng mến chuộng đã làm mất lòng dân. Số lượng chính xác người chết không hề được biết rõ, nhưng tổng số lên đến khoảng 100 và 200 người. Tôi thấy rõ ý niệm "chủ nghĩa phiêu lưu phát-xít" và "lật đổ phản cách mạng" phát xuất từ cấp lãnh đạo chỉ dùng để làm dụng cụ tuyên truyền mà thôi. Điều này không làm cho tinh thần tôi bị lay chuyển. Tôi thích thú mường tượng chúng tôi học hỏi được từ cuộc nổi dạy và đem áp dụng những kinh nghiệm tốt của bài học này cho việc quản lý tương lai nhà nước.
Với trách nhiệm giám đốc cơ quan tình báo hải ngọai, công việc của tôi là tìm kiếm chứng liệu can thiệp của những lực lượng bên ngoài trong cuộc nổi dậy này. Tôi biết rõ, ngay lúc đó, đây cũng là một tiểu sảo để cung cấp những biện minh cho giới lãnh đạo trong lúc quân dội Xô Viết phơi bày sự bất lực của họ. Việc thâu thập bài vở trên nhật báo và tuần báo, sách vở và những tài liệu khác phơi bày kế hoạch của Tây Đức và Hoa kỳ nhằm xóa bỏ Cộng Hòa chúng tôi không phải là một điều khó; lúc đó có một khuynh hướng hòa tấu chung trong mối bang giao quốc tế. Lý thuyết gia Hoa Kỳ James Burnham, trong quyển sách nhan đề Defeating Soviet Imperialism (Đánh bại Chủ Nghĩa Đế Quốc Xô Viết), đã hô hào dùng những phương pháp khuynh đảo trên lãnh thổ của khối Đông Âu, kể cả việc dùng những "câu-lạc-bộ chui" để xúi giục, "phối hợp hành động để lật đổ chính quyền Cộng Sản", do các ông bạn được CIA trợ giúp tiên phong dẫn đầu tại Tây Bá Linh, Đạo Quân Chống Phản Nhân Đạo (Kampfgruppe gegen Unmenschlichkeit –KGU) và Ủy Ban Điều Tra của Các Luật Gia Tự Do (Untersuchungousschuss Freitheitlicher Juristen – UFJ).
Chúng tôi khám phá, nhờ một điệp viên của chúng tôi trong phái bộ Quân Sự Mỹ, giám đốc CIA, Allen Dulles và cô em gái, Eleanor Lansing Dulles, một viên chức của Bộ Ngọai Giao Hoa Kỳ, đã có mặt tại Tây Đức một tuần trước khi xảy ra cuộc nổi loạn. (Điệp viên, tên Bielke, là thông dịch viên cho đại diện địa phương của AFL-CIO tên là Baker. Công tác của Baker là xâm nhập các tổ chức công đoàn thương mại của Cộng Hòa Dân Chủ Đức.) Chúng tôi cũng bắt được điện tín của Walter Sullivan, phóng viên của tờ New York Times tại Bá Linh, gởi cho trụ sở tại Manhattan, điện tín ghi: “Bất mãn sẽ không bao giờ bộc lộ nếu không có đài Phát Thanh Hoa Kỳ RIAS. Từ 5 giờ sáng thứ Tư, đài phát thanh tuyên truyền của Hoa kỳ tại Bá Linh phóng đi những chỉ thị chi tiết trên toàn lãnh thổ nước Đức”.
Công việc của chúng tôi là thâu thập tin tức tình báo trong hậu trường của cuộc nổi dậy, nhưng chúng tôi không rõ cấp lãnh đạo rút tiả kết luận nào từ những báo cáo này. Ulbricht bất ngờ đặt nặng trong tâm lên một bản tin mà chúng tôi không mấy chú ý đến. Vào tối ngày 16 tháng Sáu, tố chức công đoàn thương mại tại Tây Đức dự trù một cuộc du thuyền trên tàu hơi và mời các đồng nghiệp còn rơi rớt lại trong các công đoàn Đông Bá Linh. Nguồn tin của chúng tôi báo rằng lời mời không gởi qua bưu điện nhưng qua điện thoại và các chữ "du ngọan trên thuyền hơi" đã được nhắc đi nhắc lại trong các lần điện thọai. Ulbricht lập tức xem đây là những mật mã khơi động những biến cố ngày 17 tháng 6. Nhưng đây rõ ràng là một suy đoán thái quá.
Cuộc nổi dậy trớ trêu hơn nữa lại củng cố quyền lực của Ulbricht. Sau một cuộc nổi dậy tầm cỡ lớn như vậy, cấp lãnh đạo Xô Viết không thể nào phiêu lưu tạo thêm bất ổn hất chân ông ta và đằng nào cũng vậy Beria vừa mới bị thanh toán trong đợt khai trừ hậu Stalin đầu tiên.
Zaisser và Rudolf Herrnstadt, chủ nhiệm tờ báo của Đảng Neues Deutschland, cả hai đều ủng hộ một cuộc cải cách và Ulbricht nhờ vậy có cớ chính đáng đẩy hai đối thủ này đi. Cả hai được thay thế bởi những người ủng hộ ông vô điều kiện. Ngay chính Ulbricht cũng hành xử một cách thô bạo như Stalin để tiêu diệt những kẻ đối kháng.
Một bầu không khí bất ổn và bất tín nhiệm bao trùm khiến cuộc sống trở nên khó khăn cùng khắp Đông Đức, và tôi cảm nhận điều này. Nhưng cái nhìn về thế giới và lòng thâm tín của tôi không hề suy xuyển, một điều mà các độc giả Tây phương cảm thấy bí ẩn. Tại sao, sau cuộc đổ máu trên đường phố và việc Ulbricht thanh lọc những phần tử mà chúng tôi biết là tốt, chúng tôi không tìm cách lánh xa ông hoặc phê bình chỉ trích ông. Chiếu theo tín thuyết và thực hành của tất cả các đảng Cộng Sản sau khi Lê-nin chết, bất cứ ai công khai tấn công Tổng Bí Thư đương nhiệm, người đó phục vụ cho quyền lợi của kẻ thù giai cấp. Đối với một người Cộng Sản, điều này tương đương với việc xúc phạm của một tín đồ Công Giáo ngoan đạo.
Những người bị Ulbricht thanh trừng chấp nhận những cáo buộc một cách lặng lẽ. Việc họ không phát biểu để tự bào chữa có lẽ chỉ có thể hiểu được bởi những ai đã từng trải qua các cuộc thanh trừng của Stalin và hiểu rằng kỷ luật trong Đảng là sức mạnh keo sơn. Những người này đã cống hiến cả cuộc đời của họ cho phong trào cách mạng và đối đầu với Đảng sẽ là một đổ vỡ toàn diện. Họ giữ im lặng cũng vì một lý do khác: họ biết rằng tình trạng đã trở nên vô vọng, nói điều gì đi nữa cũng chỉ làm cho tình hình tệ hại hơn nữa.
Rudolf Herrnstadt 1953
Rudolf Herrnstadt và Wilhelm Zaisser là hai trong những nạn nhân trong tiến trình củng cố quyền lực của Ulbricht. Trước thời chiến, Herrnstadt làm việc cho GRU (Glanoye Razvedyvatelnoye Upravleniye) cơ quan tình báo quân đội Xô Viết và đã gầy dựng một hệ thống tình báo tuyệt hảo tại Warsaw. Hai điệp viên ông kết nạp Ilse Stöbe, người vợ thứ nhất của ông, và Gerhard Kegel trong Tòa Đại Sứ Đức tại Moscow đã cung cấp tin tức tiên khởi về cuộc tấn công của Đức năm 1941. Có lẽ ông phiền lòng vì được biết những công tác trước đây của ông hiện không còn nghĩa lý gì cả. Trường hợp của Herrnstadt làm cho tôi xúc động mãnh liệt. Mặc dù ông là một viên chức không nổi tiếng, vào những thập niên 1980, tôi thu xếp để ra lệnh phát hành một phim tài liệu cho các nhân viên trẻ ghi lại thành tích tình báo của ông. Ít ra ông cũng được vinh dự trong giới tình báo, mặc dù không chính thức.
Mãi sau này, tôi đọc được những giòng chữ Herrnstadt để lại trong khi ông làm việc tại Thư Khố Trung Uơng Nhà Nước tại Merseburg. Ngay tại đây, một câu hỏi nhức nhối luôn ám ảnh ông: "Tôi khôn ngoan hơn Đảng chăng?" Câu hỏi này dày vò ông mặc dù ông là nạn nhân của sự bất công do Đảng đỡ đầu và ông thấy những hệ quả sơ cứng của giáo điều của Đảng. Như Zaiser và Ackermann, ông giữ kín mối nghi ngờ trong lòng và ghi những giòng suy tư này trên những trang giấy cho thế hệ mai sau; họ bị ràng buộc bởi một im lặng đồng loã mà phần đông các đảng viên Cộng Sản thất sủng mắc phải. Họ kiên định với nguyên tắc căn bản của một đảng viên Cộng Sản: Không bao giờ gây thịêt hại cho Đảng.
Không một ai trong họ có thể sống được với tâm trạng hồ nghi nghĩ rằng họ cung cấp vũ khí cho những kẻ đánh phá quyền lực mà chúng tôi nhọc nhằn chiếm được. Giới trí thức còn phải mang thêm gănh nặng khác là phải phấn đấu để được lòng tín cẩn của một đảng cống hiến cho sự toàn thắng của giới công nhân. Cha tôi, các văn sĩ và các triết gia thường xuyên nuốt nhục phải hạ mình xuống trước những kẻ tra vấn hằn học trong những buổi họp của Đảng. Tại Đông Bá Linh, danh từ "trí thức" nghe ra lạc lõng trong nội bộ Đảng và Bộ Công An. Nhiều người đã cố gắng tự bào chữa để không bị tố cáo có "lối suy nghĩ trưởng thượng" hoặc "thiếu khiêm nhường", họ bày tỏ lòng phục tùng chấp nhận vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân và phải ngậm họng trước những hành vi ngu xuẩn nhân danh giai cấp. Đối với những ai không hiều rõ sức mạnh của não trạng này, tôi khó mà giải thích làm sao tôi có thể giữ được niềm tin trong những tháng năm săp tới.
Việc cất chức Wilhelm Zaisser khỏi chức vụ Bộ Trưởng Bộ Công An đưa đến những hậu quả vừa có tính cách cá nhân và cũng vừa có tính cách tổ chức đối với cơ quan chúng tôi. Tôi vẫn giữ chức vụ của tôi và tôi được phong làm phụ tá cho Ernst Wollweber, vị giám đốc mới của cơ quan. Vị này không màng đến những chi tiết công tác nhưng đặc biệt chú trọng đến những tin tức chính trị mà chúng tôi thâu thập. Khi đề cập đến vấn đề này, ông bước tới bước lui trên chiếc thảm đặt trong văn phòng của ông. Người ông nhỏ nhắn, tròn trịa, miệng luôn ngậm điếu xì-gà đã tắt ngẩm. Ông không thể nào ngồi yên trước bàn một khi ông bắt đầu bàn về những nhân vật, những mối liên lạc và những mâu thuẫn bên Tây phương và khả năng ảnh hưởng của chúng đôi với chúng tôi.
Ernst Wollweber
Wollweber cũng chẳng khác biệt gì nhiều với Erich Mielke, người trách nhiệm về phản gián và khử trừ gián điệp trong hàng ngũ chúng tôi. Mielke chống đối quyền kiểm soát của tôi trên tình báo hải ngoại; ông tự xem là đối thủ của tôi và luôn tìm cách phá tôi, không những lúc chúng tôi ngang hàng với nhau mà ngay cả khi ông trở thành cấp trên của tôi sau này trong chức vụ Giám Đốc Bộ Công An. Ông thuộc đạo quân tiêu diệt của Đảng Cộng Sản nhằm vào các băng đảng Quốc Xã năm 1930 và ông thẳng tay trừng trị kẻ thù. Tuy nhiên, năm 1953, ông vẫn còn đang bối rối vì một quyết định Đảng xem xét khả năng của ông do hệ lụy của cuộc nổi dậy năm 1953. Tôi được nâng quy chế, lên làm một trong những phụ tá của Wollweber trước ông ta, điều mà ông vẫn còn hằn học cho đến mãn đời của ông. Mấy năm sau, tôi được biết khi Wollweber bị cách chức, đại diện của KGB tại Bá Linh, ông Yevgeni P.Pitovranov, và Đại Sứ Xô Viết tại Công Hoà Nhân Dân Đức, ông Georgi M.Pushkin, ban thảo với Ulbricht để tìm kiếm người thay thế Wollweber. Pitovranov nói :"Tại sao ông phải kiếm? Ông có người kế vị rồi – Wolf đấy". Nhưng Mielke được đề cử vào chức vụ này; ông là tai mắt của Ulbricht.
Mielke có một cá tính đầy uẩn khúc cho dù xét dưới khía cạnh đạo đức thông thường áp dụng cho thế giới điệp viên. Ông đam mê thể thao thể lực. Ông có thói tật thu thập dữ kiện không những về những người tình nghi đối lập mà ngay cả các bạn đồng nghiệp. Ông cố moi tìm kiếm cho ra những tên phản bội trong giới lãnh đạo, ông hứa cho tôi quyền cao chức trọng nếu tôi tìm được trong Trung Tâm Tài Liệu Hoa Kỳ tại Bá Linh, nơi dự trữ tài liệu của Quốc Xã sau năm 1945, một loại bằng chứng cho thấy chính tri gia Đông Đức cộng tác với Đệ Tam Cộng Hòa. Không có một sự kiện nào thoát sự chú ý của ông, không có một chi tiết nhỏ nào không rơi vào hồ sơ đỏ mà ông cất kín trong tủ sắt văn phong.
Erich Mielke
Có một lần tôi nhận báo cáo của một nhân viên sửng sốt trong cơ quan của tôi, anh thấy Erich Honecker, sau này là lãnh tụ Đông Đức, nhưng lúc đó ông đứng đầu tổ chức Thanh niên Đức Tự Do, rón rén qua các ngõ ngách đường phố sau khi ra lệnh cho tài xế về nghỉ vào lúc trạng vạng tối. Đối với tôi điều này chứng tỏ là Honecker đang thăm viếng một cô bạn gái vụng trộm, mặc dù lúc đó ông đã thành hôn với một cô bạn đồng nghiệp công chức. Tôi đùa bỡn việc này với Mielke: “Này, chúng ta đâu cần giữ sự kiện này trong hồ sơ”, và tôi làm ra vẻ vứt báo cáo đó đi. “Không, không”, ông giám đốc phản gián vội vàng trả lời “Để tôi cất giữ nó. Mình phải cẩn thận không biết chuyện gì sẽ xảy ra sau này”Báo cáo này đóng góp thêm chi tiết về những thành tích không lấy gì làm đẹp đẽ của ông Honecker vào trong hộp đỏ của Mielke, để rồi hàng chục năm sau này vào năm 1989 được phơi bày khi ông uỷ viên công tố tìm tòi trong văn phòng của Mielke.
Một khi đã khởi sự, các cuộc thanh trừng thật khó mà ngừng lại. Bốn năm sau, Wollwever bị khai trừ do một thủ đoạn khác của Ulbricht và Mielke chiếm chức vụ Bộ Trưởng Bộ Công An. Có lẽ Mielke vẫn giữ chức vụ đầu não công an nếu không có ngày ra đi lố bịch vào năm 1989, khi ông rời bỏ nhiệm sở với lời từ biệt miễn cưỡng trước quốc hội Đông Đức: "Tôi thương yêu hết mọi người".
“...vụ của Guillaume không phải là nguyên nhân mà chỉ là cớ để hạ bệ ông Brandt vào ngày 4 tháng 5 năm 1974, không bao lâu sau khi Guillaume bị bắt. Trong hồi ký, ông Brandt cho rằng việc khám phá một gián điệp trong vòng thân cận không thể nào là lý do để buộc ông phải từ chức...”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét