Theo tài liệu mới nhất
được giải mật cho biết: Ngày 23/1/1961, một máy bay ném bom chiến lược B-52 cất
cánh từ căn cứ Seymour Johnson để thực hiện chuyến bay thường lệ dọc bờ biển
Đông nước Mỹ, đã vô ý để rơi hai quả bom nguyên tử hydrogen (bom H) MK 39 Mod 2
trên bầu trời TP.Goldsboro. Công bố giải mật động trời này lập tức gây chấn
động nước Mỹ và thế giới.
Theo báo chí Mỹ và Anh cho biết, vụ tai nạn xảy ra đúng vào thời
điểm mà chiến tranh lạnh giữa Mỹ và Nga đang đạt tới mức cao độ. Một năm trước
đó cuộc khủng hoảng tên lửa ở Cuba suýt chút nữa đã đem tới nước Mỹ mối nguy về
một cuộc tấn công hạt nhân. Chính phủ Mỹ từng xác nhận những sai sót của phi
công lái chiếc B-52 lúc đó đã khiến hai quả bom nguyên tử rơi xuống mặt đất
nhưng chưa bao giờ khẳng định một trong số hai quả bom đã được lắp kíp nổ hoàn
chỉnh.
Tài liệu mật nói trên được viết bởi kỹ sư cấp cao Parker F Jones
của Phòng thí nghiệm quốc gia Sandia năm 1969, tám năm sau vụ tai nạn ở
Carolina. Ông Jones từng là nhà khoa học có trách nhiệm trong việc thiết kế hệ
thống khóa an toàn của bom nguyên tử. "Đó đơn giản chỉ là một giai đoạn
kích nổ thất bại nhưng lại có ý nghĩa cực kỳ to lớn với nước Mỹ", ông
Jones tiết lộ.
Phóng viên điều tra Eric Schlosser lấy được tài liệu này theo
Đạo luật Tự do thông tin và đăng tải lần đầu tiên trên báo Guardian (Anh) ngày
20/9/2013 . "Nếu một vụ nổ bom nguyên tử xảy ra ở phía Bắc Carolina, lịch
sử nhân loại chắc chắn sẽ thay đổi", ông Scholsser cho biết.
Ảnh minh họa.
Sự cố xảy ra chỉ 3 ngày sau khi cố Tổng thống Mỹ John F Kennedy
đọc diễn văn nhậm chức. Chiếc máy bay B-52 cất cánh từ căn cứ không quân
Seymour Johnson ở Goldsboro, bang North Carolina, đang bay dọc bờ biển phía
Đông thì gặp sự cố vào ngày 23/1/1961. Khi máy bay bổ nhào xuống, 2 quả bom
khinh khí Mark 39 bị rơi xuống đất. Mỗi quả bom mà máy bay B-52 mang theo năm
đó được đánh giá có sức nổ tương đương 4 triệu tấn thuốc nổ TNT, có sức công
phá gấp 260 lần quả bom nguyên tử mà Mỹ từng ném xuống hủy diệt Hiroshima –
Nhật Bản năm 1945. Do không được chủ động thả nên quả bom đầu tiên không bung
chốt an toàn và rơi thẳng xuống bãi cỏ ven đường Big Daddy, không gây thiệt hại
gì nghiêm trọng.
Điều vô cùng nguy hiểm, quả bom H còn lại hoạt động như loại bom
hạt nhân ném xuống Nhật Bản, tức là dù bung ra và khởi động cơ chế kích nổ. Quả
bom này rơi xuống cánh đồng gần Faro, bang North Carolina, dù của nó phủ trên
những cành cây. Ông Jones phát hiện chỉ còn lại đúng 1 trong số 4 chốt an toàn
của quả bom rơi xuống Faro hoạt động. "Mạch điện áp gặp sự cố đã khiến quả
bom may mắn không phát nổ trên bầu trời bang Carolina", ông Scholsser đã
viết trong báo cáo. Theo các chuyên gia, nếu bom phát nổ, bụi phóng xạ có thể
lan tới Thủ đô Washington D.C cũng như các thành phố Baltimore, Philadelphia và
New York, đe dọa mạng sống hàng triệu người.
Cũng theo tài liệu trên, ít nhất 700 tai nạn và sự cố "đáng
kể” liên quan đến 1.250 vũ khí hạt nhân đã được ghi nhận từ năm 1950 – 1968.
Chính phủ Mỹ hiện chưa đưa ra những phản hồi sau khi tài liệu mật này được công
bố.
Báo giới Mỹ còn đưa tin, theo tài liệu của Cục Lưu trữ an ninh
quốc gia Mỹ (NSA), vụ thất lạc vũ khí hạt nhân đầu tiên trong lịch sử xảy ra
ngày 13/2/1950 khi chiếc máy bay ném bom chiến lược Convair B-36B của không
quân Mỹ gặp nạn khi tham gia diễn tập tấn công trong điều kiện mùa đông. Chiếc
máy bay từ căn cứ tại Alaska, chở một bom nguyên tử Mark IV, bị hỏng động cơ do
đóng băng và buộc phải thả rơi rồi kích nổ bom trên không. Tuy chứa uranium và
thuốc nổ thông thường nhưng do không có lõi plutonium nên quả bom chỉ gây ra
một vụ nổ phi hạt nhân lớn gần British Columbia (Canada). Mỹ và Canada sau đó
khẳng định không có rò rỉ phóng xạ trong khu vực. Chỉ 9 tháng sau, đến lượt một
oanh tạc cơ B-50 do động cơ bị trục trặc đã vứt một quả bom Mark 4 xuống sông
St. Lawrence gần Riviere-du-Loup, cách Montreal (Canada) khoảng 482km về hướng
đông Bắc. Quả bom nổ tung trong lúc va chạm, và dù không có lõi plutonium, vụ
nổ cũng thổi bay gần 45kg uranium chứa trong bom. Sau đó máy bay hạ cánh an
toàn tại căn cứ không quân Mỹ ở Maine.
Đến năm 1956, xảy ra một sự cố còn nghiêm trọng hơn khi một
chiếc B-47 đột nhiên mất tích “không sủi tăm” khi chở theo 2 quả bom nguyên tử
từ căn cứ không quân MacDill, bang Florida, đến một căn cứ nước ngoài. Liên lạc
bị cắt khi máy bay đang trong vùng trời Địa Trung Hải và mọi nỗ lực tìm kiếm
trong hàng chục năm qua đều kết thúc trong vô vọng đến tận ngày nay. Cùng năm,
lại là máy bay B-47 gặp sự cố với vụ một oanh tạc cơ đâm vào cơ sở chứa vũ khí
hạt nhân ở căn cứ không quân Lakenheath tại Suffolk (Anh) trong lúc diễn tập.
Lúc đó, cơ sở này chứa đến 3 quả bom Mark 6. Kết quả kiểm tra ban đầu cho thấy
phép màu đã cứu nước Anh khi một quả bị nứt vỏ, lộ kíp nhưng lại không phát nổ.
Mỹ tiếp tục mất một quả Mark 15 nặng 3.400kg trong vụ va chạm
chiến đấu cơ ngày 5/2/1958. Trong lúc hạ cánh xuống căn cứ không quân Hunter
tại bang Georgia, chiếc B-47 đụng phải một chiếc tiêm kích F-86. Tai nạn khiến
chiếc B-47 buộc phải thả bom xuống vùng biển gần đảo Tybee. Rất may là không có
vụ nổ nào và cũng không có thương vong, theo hãng tin UPI. Sau Anh và Canada,
đến lượt Tây Ban Nha suýt “lãnh đủ” vì mũi tên gãy Mỹ và cũng do đụng máy bay.
Theo AP, hồi tháng 1/1966, chiếc B-52 chở 4 quả bom nhiệt hạch đụng chiếc máy
bay tiếp nhiên liệu KC-135 trên không và rơi gần Palomares, Tây Ban Nha, theo
bộ Quốc phòng Mỹ. Vụ việc khiến 7 phi công trên 2 máy bay thiệt mạng. Hai quả
bom không có lõi plutonium phát nổ, thải ra một lượng uranium và giới chức phải
di dời hơn 1.400 tấn đất ở Palomares. Mỹ nhanh chóng thu hồi được quả bom thứ
ba nhưng phải huy động hơn 20 tàu chiến, máy bay và mất nhiều tháng mới vớt
được quả thứ tư. Theo cơ quan Lưu trữ quốc gia Mỹ, tháng 12/1965, máy bay tấn
công A-4E Skyhawk mang theo bom hạt nhân B43 lăn xuống biển khi đang đậu trên
tàu sân bay USS Ticonderoga tại vùng biển Thái Bình Dương. Hậu quả là phi công,
máy bay lẫn vũ khí hủy diệt đều không bao giờ được tìm thấy.
Gợi nhớ vụ Mỹ ném 2 quả bom nguyên tử xuống Nhật năm 1945
Vụ việc nói trên đã gợi lại quá khứ kinh hoàng trong Chiến tranh
thế giới thứ hai: Sự kiện Mỹ ném bom nguyên tử vào nước Nhật năm 1945. Theo kế
hoạch ban đầu, Mỹ sẽ ném bom nguyên tử xuống ba thành phố là Hirosima, Nagasaki
và Tokyo. Tình cờ, chiến hạm chở quả bom nguyên tử mà Mỹ định ném xuống Thủ đô
Tokyo đã bị phá huỷ. Nhờ vậy, thành phố Tokyo thoát khỏi thảm hoạ như Hirosima
và Nagasaki. Việc ném bom nguyên tử xuống Nhật cũng đã được tranh cãi gay gắt
giữa các phe phái của Lầu Năm Góc. Tổng tư lệnh quân đội Mỹ ở Thái Bình Dương
McArtor là một nhân vật cực kỳ phản đối, nhưng Eisenhower, được sự ủng hộ của
Tổng thống Truman và phái diều hâu trong nghị viện đã thắng thế.
Đầu tháng 7/1945, ba quả bom được bí mật vận chuyển rời cảng
California xuống Chiến hạm Indian Holis, tiến về cảng Tinian (thuộc quần đảo
Macsan), sau đó được máy bay B-29 (được xem là pháo đài bay lúc đó) của Mỹ chở
đi. Dưới mật danh "Little boy" - chú bé, vào hồi 8h15’ ngày 6/8/1945,
không quân Mỹ dùng pháo đài bay B-29 thả quả bom nguyên tử đầu tiên có công
suất 12,5 kilôtôn, hủy diệt cả thành phố Hirosima, làm chết ngay 80 nghìn người
và hàng chục nghìn người bị nhiễm xạ, trong phạm vi bán kính 10km. Ở Hirosima
có 7 dòng sông thì cả 7 dòng sông đều đầy xác, nhiệt độ không khí cao làm cho
nhiều người nhảy xuống sông, rồi ôm lấy nhau mà chết, nhiều người khác bị hóa
thành than trên đường phố.
Ba ngày sau, với mật danh Fatman - người khổng lồ, lúc 10h58’
ngày 9/8/1945, không quân Mỹ lại tiếp tục dùng pháo đài bay B-29 thả quả bom
nguyên tử thứ hai xuống thành phố Nagasaki, phá hủy nặng nề 1/3 thành phố;
trong đó 4,5km bị phá hủy hoàn toàn; có 20.000 người chết và 50 nghìn người bị
thương. Khi bom nổ có sức công phá hàng triệu độ, trong vòng bán kính 2km, 60%
số người bị chết tại chỗ, còn 40% số người chết dần do nhiễm phóng xạ. Nhiều
người bị chết do sóng xung kích cực mạnh, do sức nóng của cầu lửa khi nổ. Người
ta phải chôn người chết trong những hố chôn tập thể, có hố chôn tới 50.000
người.
Chiến hạm chở quả bom thứ ba dành cho Thủ đô Tokyo bị đánh chìm
Theo kế hoạch, chiến hạm Indian Holis sẽ chở quả bom nguyên tử
thứ ba đến Philippines. Sau đó máy bay B-29 của Mỹ chở nó bay dọc bờ biển Trung
Hoa và Triều Tiên rồi ném xuống Tokyo. Hồi 23h ngày 29/7/1945, trong khi đi
tuần trên vùng biển tây bắc Thái Bình Dương, Đại úy Ishimoto chỉ huy tàu ngầm
I-158, một loại tàu ngầm chạy cực nhanh của Nhật, đã phát hiện thấy chiến hạm
Indian của Mỹ đang chạy về phía đảo Guam mà không có tàu hộ tống. Nhận thấy đây
là cơ hội thuận lợi để tiêu diệt chiến hạm, Đại úy Ishimoto đã ra lệnh phóng
ngư lôi tấn công chiến hạm của Mỹ. Sau loạt ngư lôi cực mạnh, chiến hạm chìm
nghỉm dưới đáy đại dương đem theo quả bom thứ ba dự định ném xuống Tokyo.
Sau này khi được hỏi vì sao có sự khinh suất này, McArtor,
nguyên Tổng Tư lệnh quân đội Mỹ ở Thái Bình Dương nói: “Đây là một sự nghi binh.
Chúng tôi không muốn để đối phương chú ý, nhưng nước Nhật đã có những người con
anh hùng”. Còn Đại tá Trudakanke, nguyên chỉ huy Hải quân Nhật tại Nam Thái
Bình Dương (có sở chỉ huy tại Sài Gòn lúc đó), sau này cũng đã kể cho phóng
viên báo Bungei Shunphu rằng: “Đại úy Ishimoto đã lập một chiến công phi
thường, cứu Thủ đô Nhật Bản thoát khỏi thảm họa nguyên tử, nhưng ông không hề
biết. Sau khi đánh đắm chiến hạm của Mỹ, ông ta chỉ điện cho chúng tôi vẻn vẹn
có mấy lời: “Đã đánh đắm chiến hạm đối phương vào hồi 23h ngày 29/7/1945".
Khe Sanh - Việt Nam đã từng là mục tiêu ném bom nguyên tử của Mỹ
Đầu năm 1968, Khe Sanh trở thành mối quan tâm hàng đầu đối với
các tướng lĩnh Mỹ và nội các của Tổng thống Johnson vì tại đây, 5.000 lính Mỹ
đang bị quân giải phóng vây hãm. Lo sợ Khe Sanh trở thành một Điện Biên Phủ thứ
2, Tổng thống và các quan chức chóp bu của Mỹ đã bàn bạc nhiều lần để tìm cách
giải vây. Trong những cuộc họp đó, khả năng sử dụng vũ khí hạt nhân đã được nêu
ra.
Trong cuốn Những bí mật của chiến tranh Việt Nam, Daniel
Ellsberg kể lại: "Ngày 10/2/1968, tờ Bưu điện Washington trích lời phát
biểu của tướng Wheeler trước một vài thượng nghị sỹ rằng Hội đồng Tham mưu sẽ
khuyến nghị sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật nếu thấy việc này là cần thiết
để bảo vệ năm nghìn lính thủy đánh bộ đang bị mắc kẹt tại cứ điểm Khe Sanh, mặc
dù ông ta không cho rằng lực lượng tại đây sẽ yêu cầu giúp đỡ".
Đồng quan điểm với tướng Wheeler, tư lệnh quân viễn chinh Mỹ ở
Việt Nam, tướng Westmoreland cũng cho rằng một phương án dùng vũ khí hạt nhân
loại nhỏ ở Khe Sanh là nên tính toán. Westmoreland viết trong hồi ký của mình:
"Xem xét khả năng sử dụng vũ khí nguyên tử chiến thuật ở Khe Sanh là một ý
tưởng khôn ngoan. Khu vực xung quanh Khe Sanh gần như không có người ở, số lượng
thường dân bị thương vong sẽ ở mức thấp nhất" và viên tướng này dự tính
tiếp: "Sử dụng vài quả bom nguyên tử cỡ nhỏ ở Việt Nam, hoặc thậm chí đe
dọa sử dụng sẽ nhanh chóng góp phần kết thúc sớm cuộc chiến. Nếu Washington
muốn gửi thông điệp đến Hà Nội, chắc chắn vũ khí nguyên tử cỡ nhẹ sẽ làm được
điều này rất hiệu quả".
Những cuộc đối thoại được trích ra từ số băng với thời lượng lên
đến 500 giờ, ghi lại các cuộc đối thoại của Richard Nixon ở Nhà Trắng, được Cục
Lưu trữ quốc gia Mỹ công bố vào tháng 3/2002 cũng cho thấy Việt Nam là mục tiêu
sử dụng bom nguyên tử của Mỹ. Cuộc đối thoại đầu tiên tại Nhà Trắng vào ngày
15/4/1968 có nội dung sau: Ngoại trưởng Kissinger: “Tôi nghĩ chúng ta nên tăng
cường tấn công vào các nhà máy điện, hải cảng của Bắc Việt Nam”/ Tổng thống
Nixon: “Tôi thà sử dụng bom nguyên tử còn hơn”/ Kissinger: “Điều đó ? Tôi e
nặng tay quá”/ Nixon: “Bom nguyên tử, ông áy náy về điều đó à ?”/ Kissinger:
“Tôi chỉ muốn ngài nghĩ lớn hơn”.
Một tháng sau cuộc đối thoại ấy, Nixon ký lệnh leo thang chiến
tranh ở Việt Nam. Trong lần trả lời phỏng vấn tạp chí Times năm 1985, cựu Tổng
thống Mỹ - Richard Nixon cho biết: "Tôi có xem xét khả năng sử dụng vũ khí
nguyên tử, nhưng loại bỏ khả năng ném bom phá đê vì làm như thế có thể dìm chết
khoảng 1 triệu con người. Và cũng vì lý do ấy, tôi đã quyết định hủy bỏ khả
năng tấn công bằng bom nguyên tử bởi vì đó không phải là mục tiêu quân
sự".
Tuy nhiên, trong cuộc đối thoại với Kissinger vào tháng 5/1972,
ý đồ của Nixon hoàn toàn không phải vậy: Nixon: “Điểm duy nhất tôi và ông không
tán đồng là về vấn đề ném bom (nguyên tử). Tại sao ông cứ lo đến sinh mạng đám
dân chết tiệt ấy ? Tôi cóc cần chuyện đó”. Kissinger: “Tôi quan ngại về sinh
mạng dân thường vì tôi không muốn cả thế giới nhìn ông như một thằng bán thịt.
Chúng ta có thể chiến thắng mà không cần phải giết dân”.
Thành lập nhóm nghiên cứu mật JASON
Ý đồ ném bom nguyên tử xuống Việt Nam thực tế đã manh nha trước
sự kiện 5.000 lính Mỹ bị quân đội chúng ta bao vây ở Khe Sanh. Vào thời điểm
cao độ của chiến tranh Việt Nam, dù quân đội Mỹ dội bom xuống miền Bắc bằng một
chiến dịch ném bom lớn nhất trong lịch sử: Ném liên tục 3 năm - từ tháng
3/1965, với lượng bom lớn hơn tổng lượng bom ném xuống toàn châu Âu thời đệ nhị
Thế chiến, thế nhưng vẫn không tạo được tác động mạnh. Vì vậy, mùa hè năm 1966,
Lầu Năm Góc ra lệnh triệu tập một nhóm quy tụ toàn những khoa học gia tinh túy
nhất nước Mỹ, khoảng 50 người, với tên gọi JASON có nhiệm vụ nghiên cứu, chuẩn
bị cho kế hoạch tấn công Bắc Việt Nam bằng vũ khí nguyên tử với ý đồ xoay
chuyển cục diện chiến cuộc.
JASON là một bộ phận có tầm ảnh hưởng lớn, song ít được biết đến
vì phần lớn công việc đều được tiến hành trong vòng bí mật. Mỗi năm JASON ngốn
khoản ngân sách 1,5 triệu USD từ bộ Quốc phòng và 2,5 triệu USD từ bộ Năng
lượng (thời điểm 1960). Nhóm JASON gặp gỡ, bàn bạc trong 6 tuần lễ liên tục tại
UC Santa Barbara để hoàn tất 3 nghiên cứu quan trọng, gồm: Chiến thuật cắt đứt
các đường dây tiếp vận của Việt Cộng; xây dựng hệ thống hàng rào điện tử khắp
Việt Nam; và chiến thuật vũ khí nguyên tử ở Đông Nam Á.
Hai nghiên cứu đầu tiên được Bộ trưởng Quốc phòng lúc bấy giờ -
Robert McNamara vận dụng triệt để trong chiến tranh. Còn bản nghiên cứu thứ ba
là bản báo cáo mật dài 55 trang, phân tích khả năng nên sử dụng vũ khí nguyên
tử thế nào vào chiến trường Việt Nam.
Do đâu mà Mỹ không thực hiện kế hoạch ném bom nguyên tử ở Việt
Nam?
Mặc dù được giữ bí mật, chẳng bao lâu kế hoạch sử dụng vũ khí
hạt nhân để cứu Khe Sanh đã bị rò rỉ ra ngoài. Ngay tức khắc, nó gây ra một làn
sóng dư luận sôi động trên mặt báo và cũng kéo theo một cuộc tranh luận gay gắt
trên chính trường. Những nghị sỹ thuộc phe diều hâu ủng hộ kế hoạch này với lập
trường làm như vậy sẽ kết thúc nhanh chiến tranh. Nhưng số người phản đối đông
đảo hơn. Trong số đó, Thượng nghị sỹ Fulbright ở Ủy ban đối ngoại Thượng viện
và hai nghị sỹ khác là Clark và Aiken đã lên án việc này ngay khi họ biết tin
vào đầu tháng 2/1968. Trên kênh truyền hình CBS, Thượng nghị sỹ Eugene Mc
Carthy đang vận động tranh cử Tổng thống đã công khai trả lời về "Kế hoạch
sử dụng vũ khí nguyên tử của nội các Johnson" làm dư luận Mỹ xôn xao.
Trong thời điểm này, Thủ tướng Anh Harold Wilson đang ở
Washington nhân chuyến thăm Mỹ cũng đã phát biểu với báo giới, công khai phản
đối kế hoạch đó, ông ta nói: "Thật điên rồ nếu Mỹ sử dụng vũ khí nguyên
tử. Điều đó không chỉ đem lại hậu quả thảm khốc cho vị thế của nước Mỹ mà còn
là khởi đầu rất nguy hiểm cho khả năng leo thang chiến tranh trên toàn thế
giới". Trước sức ép từ dư luận, Tổng thống Johnson buộc phải ra thông cáo
báo chí trả lời giả dối rằng: "Trong suốt 7 năm qua, tôi chưa hề nhận được
lời yêu cầu triển khai vũ khí nguyên tử nào cả. Do đó tôi muốn chấm dứt thảo
luận về vấn đề này".
Trên thực tế, sau hơn 70 ngày bị vây hãm, lính Mỹ đã phải rút
khỏi Khe Sanh mà không có một trận ném bom nguyên tử nào. Kế hoạch ném bom
nguyên tử cứu Khe Sanh bị hủy bỏ. Đơn thuần là do phong trào đấu tranh phản
chiến của dân Mỹ và các chỉ trích trong chính giới đã khiến kế hoạch này bị gác
lại? Và có lẽ, trên tất cả là Mỹ sợ một cuộc trả đũa hạt nhân từ đối phương.
Theo bản báo cáo dự liệu của nhóm JASON, trong hai đồng minh của
Hà Nội thì Trung Quốc mới chỉ ở giai đoạn đầu của các thử nghiệm tên lửa hạt
nhân. Cho nên chỉ có Liên Xô là nguồn cung cấp vũ khí nguyên tử cho Việt Nam.
Mặc dù hiện nay các loại bom và tên lửa hạt nhân của Liên Xô, nhẹ nhất cũng
1.000 pound (khoảng 450kg) nên rất khó sử dụng đối với các đội quân đánh theo
lối du kích của đối phương. Nhưng rất có khả năng Liên Xô đã thiết kế được loại
vũ khí nguyên tử chuyên biệt cho bộ binh bắn đi từ súng cối, súng không giật
nặng vài trăm pound với tầm bắn xa vài dặm. Họ cũng tin chắc rằng loại vũ khí
này Việt Nam đã sở hữu.
Theo tiên đoán của nhóm JASON, những vũ khí này có cỡ nhỏ, trọng
lượng nhẹ có sức công phá từ 10 đến 20 kiloton sẽ được di chuyển từ Bắc vào Nam
qua đường mòn Hồ Chí Minh. Tất nhiên quá trình di chuyển sẽ mất vài tuần thậm
chí hàng tháng trời để chuyển được từ 50 đến 100 vũ khí nguyên tử nhưng việc di
chuyển là không khó khăn gì.
Từ đó, họ dự kiến 3 kịch bản trả đũa của đối phương. Thứ nhất là
bí mật vận chuyển đủ số lượng vũ khí nguyên tử để tập kích đồng loạt nhiều căn
cứ quân sự của Mỹ ở miền Nam. Khả năng này hơi khó so với trình độ tác chiến
của đối phương hiện tại và cũng rất nguy hiểm nếu như có một vài trận địa chậm
trễ không tiến hành kịp thời. Thứ hai là tấn công kéo dài trong nhiều tuần hoặc
hàng tháng trời. Mỗi lần sẽ tấn công một căn cứ. Khả năng này được cho là dễ
xảy ra nhất vì nó phù hợp với lối đánh và trình độ tác chiến hiện tại của đối
phương. Thứ ba là tập trung tấn công vào một mục tiêu chiến lược quan trọng.
Tân Sơn Nhất được Mỹ xác định là một mục tiêu lý tưởng nếu Việt Nam chọn đánh
theo lối này vì sân bay này nằm ở ngoại ô, trong một khu vực ít dân cư và là một
mục tiêu chiến lược cực kỳ quan trọng. Hơn nữa, chính Mỹ phải thừa nhận rằng
công tác an ninh hiện tại ở sân bay này là rất kém, khó có thể đảm bảo rằng sẽ
không có một va li bom lọt lưới vào trong.
Vì những lý do đó, người Mỹ đã gác ý định sử dụng vũ khí nguyên
tử mặc dù cuộc chiến tranh ở Việt Nam là ác liệt và tổn thất nhất trong các
cuộc chiến mà họ từng tham gian
Thu Hà-Linh Lan (tổng hợp)
1 nhận xét:
Thật khủng khiếp!
Đăng nhận xét