Thứ Hai, 24 tháng 3, 2014

KỶ NIỆM ĐỜI LÍNH (Phần II) (Việt Dũng)


3- ĐƯỜNG GIAO LIÊN – BÃI KHÁCH.
        Vào một đêm tối trời cuối tháng 7 năm 1972, tất cả đơn vị huấn luyện của tôi nhận lệnh hành quân đi chiến trường. Khi đó trong Quân đội có những mật danh chỉ các mặt trận như: Chiến trường B là chiến trường miền Nam, chiến trường C là sang Lào, chiến trường K là Campuchia. Chiến trường miền Nam lại chia ra làm nhiều địa bàn như: B2 là mặt trận Nam Bộ, B3 là mặt trận Tây Nguyên và B5 là khu vực Trị Thiên - Huế.
Đường Trường Sơn xe anh qua...
       Chúng tôi lên đường vào một buổi chiều tối. Đoàn quân cứ nối nhau hàng một, lầm lũi tiến theo đường số 6 đi về hướng Thủ đô. Đi thì đi theo lệnh chỉ huy thế thôi, chứ chẳng ai trong chúng tôi nghĩ là sẽ được đi qua thủ đô Hà Nội yêu dấu. Đến đêm thứ hai, hành quân về đến thị xã hà Đông, chúng tôi nhận lênh nghỉ lại đây hai ngày để nhận thêm quân trang và súng đạn. Vậy là ngay trong đêm, khoảng hai chục lính ở đại đội tôi đã lặng lẽ bỏ đơn vị, trốn về Hà Nội thăm gia đình. Cũng thông qua số anh em “tút” về thăm nhà này mà nhiều nhà biết tin đơn vị của con sắp đi B và sẽ lên tàu hỏa ở ga Thường Tín vào tối mai, nên người nhà đã lên nhà ga để tiến con.


        Đêm lên tàu đi B ở ga Thường Tín, hàng ngàn quân nhân đã lặng lẽ chia tay gia đình, chia tay Thủ đô, chia tay miền Bắc thân yêu để vào tuyến lửa. Khi đoàn tàu hú một hồi còi dài, dưới sân ga hàng trăm tiếng gọi, tiếng chào của người thân các chiến sĩ vang vọng trong đêm. Trong tiếng ầm ào của tiếng bánh tàu nghiến xuống đường ray, tôi nghe bên cạnh có những tiếng nấc nghẹn ngào của đồng đội. Quả thật giây phút đó, tôi và nhiều an hem đã nghĩ rằng chiến tranh ác liệt, sẽ hiếm có cơ hội trở về.
        Tàu chạy đến ga Thanh Hóa thì đoàn quân xuống tàu, hành quân bộ cắt lên miền Tây, rồi lại được đi xe cơ giới vào đến miền Tây Nghệ An, hà Tĩnh, Quảng Bình, nơi có những dãy núi chập trùng mờ xa. Phía Đông, nơi có tuyến đường quốc lộ 1 A huyết mạch xuyên Việt đi ven biển, luôn có tiếng máy bay địch quần đảo ầm ì và cả những chớp lửa kèm theo tiếng nổ trầm, đục vọng lại. Ở trạm dừng chân ven đường mòn Hồ Chí Minh, chúng tôi được nghe cánh lính lái xe tuyến lửa tâm sự rằng: “Lái xe đi trên đường Trường Sơn, nguy hiểm nhất là gặp máy bay C 130, chúng bay nhiều giờ liền trên những cánh rừng để phát hiện mục tiêu. Nếu không may đoàn xe bị máy bay địch phát hiện, kể cả ban đêm, “bọn” C 130 này liền đuổi theo bắn bằng rốc- két và khẩu đại liên 6 nòng. Loại máy bay này có thể đánh phá mục tiêu hàng 2 – 3 giờ liền. Hầu như không đêm nào lính vận tải không bị thiệt hại”. Nghe chỉ huy các cấp phổ biến rằng: địch đánh phá tuyến giao thông Bắc – Nam dữ dội để ngăn chặn sự chi viện từ miền Bắc vào chiến trường. Vì vậy chúng tôi phải đi vòng đường miền Tây. Trong bối cảnh chiến tranh ác liệt khi đó, mỗi người lính, mỗi chuyến xe chuyển vũ khí, lương thực vào đến chiến trường đều là một kỳ công.
Những cô gái mở đường.
       Hàng quân bằng cơ giới qua các trọng điểm như dốc Bò Lăn, Ngã ba Đồng Lộc, Ngã ba Cờ Đỏ, đoàn xe đều bị đánh cả phía trước và phía sau. Đặc biệt là tại ngã ba Cờ Đỏ (Quảng Bình), đội hình hành quân bị máy bay đánh trúng, cháy hai xe, hy sinh năm đồng đội. Từ Ngã ba Cờ Đỏ, chúng tôi bắt đầu hành quân bộ vào chiến trường Quảng Trị (B 5). Vai đeo quân trang, súng, đạn nặng gần 30 ki-lô-gam, đi bộ triền miên từ đêm này sang đêm khác, lính mệt đứt hơi, mệt lả người, lại còn muỗi, dĩn đốt lúc trời khô, vắt bám khi trời mưa. Lính mới chưa có kinh nghiệm hành quân đường dài, cứ chốc chốc lại rút bi-đông nước bên sườn tu một hơi, nên càng mệt. Kinh nghiệm hành quân của lính cũ là mang theo một nhúm muối, khi khát thì nhấp một ngụm nước nhỏ, rồi lấy vài hạt muối ngậm trong miệng, cơ thể ra mồ hôi nhiều, bị mất muối, nên “chống khát” bằng cách này sẽ bù lại muối cho cơ thể, rất hiệu nghiệm. Lúc đó mới ngẫm lại câu của chính trị viên đại đội nói ngày nào mới thấy đúng: “Thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu” và “Tư tưởng không thông, đeo bi-đông không nổi”.
       Đi miết, mệt quá, nên sang tuần thứ hai đã có nhiều người đổ bệnh, rồi vấp ngã trẹo chân, sái tay…quân số cứ hao hụt dần. Những người ốm, yếu không đi theo đơn vị được thì gửi lại các trạm giao liên để điều trị rồi vào sau theo đơn vị khác, số này gọi là “quân thu dung”. Trên đường vào chiến trường, cũng có những chiến sĩ sợ khó, sợ khổ, sợ ác liệt hy sinh, nên tìm cách quay lại, chuồn ra hậu phương, số này bị anh em đồng ngũ gọi là “B quay”, hay lính Hà Nội gọi là “tuột xích”. Sau này tôi được nghe nhiều anh em kể lại là số “B quay” hay “Tuột xích” trên đường chuồn ra hậu phương, nhiều người không may cũng bị trúng bom, pháo chết. Tôi thầm nghĩ: “Cũng thật thương cảm cho số phận của họ”. Thời đó, trong các đơn vị huấn luyện của bộ đội ở miền Bắc “truyền tụng” bài vè kể về chuyện đào ngũ của lính “B quay” như sau:
       - “Hà “chuồn” (Hà Tây), Nam “lủi” (Nam Định), Thái Bình “bay”. Hà Nội “hiên ngang” trốn ban ngày. Thanh Hóa mất mùa xin ở lại. Nghệ An thấy thế cũng giơ tay…”.
       Tuy nhiên, tôi cũng được biết, sau này, nhiều anh em nhất thời sợ khó, sợ khổ, sợ hy sinh đã “chót” B quay, sau ra đến hậu phương, được sự giáo dục của Quân đội, lại xung phong nhập ngũ, người vào chiến trường miền Nam, người sang chiến trường Lào… nhiều người chiến đấu anh dũng, lập nhiều thành tích, có người đã hy sinh giữa trận tiền.
        Các đơn vị bộ đội hành quân trên đường giao liên theo từng chặng đã được tính toán sẵn, đến địa điểm dừng chân thì có những binh trạm để cung cấp bổ xung lương thực, thuốc men và có địa điểm để trú quân gọi là BÃI KHÁCH. Bãi khách thường là một khoảng rừng khá rộng, được bố trí gần một con suối, hay một khe nước để bộ đội tiện có nước sinh hoạt, nấu ăn. Lính ta lúc nghỉ cũng vẫn phải theo đội hình trung đội, đại đội gần nhau để tiện cho việc quản lý và điều hành của các cấp chỉ huy. Thường quân ta đến các bãi khách vào lúc nửa đêm, trời tối đen như mực, việc mắc võng, sắp xếp vũ khí… đều làm mò trong đêm, các vị chỉ huy tiểu đội, trung đội được phát chiếc đèn pin thì phải lấy miếng vải sẫm màu bọc lấy pha đèn, chỉ khoét một lỗ nhỏ bằng hạt đỗ để soi, cho khỏi lộ ánh sang, tránh bị máy bay địch phát hiện từ trên cao. Trong khi bộ đội mắc võng nghỉ, thì các trung đội cử người đi tìm nguồn nước để vo gạo, nấu cơm, rồi nắm thành các “vắt” để chia cho anh em mang theo cho chặng hành quân hôm sau. Có những hôm đến bãi khách, trời mưa dầm dề, những người được cắt cử nấu cơm đành phải mang cuộn quai dép cao su dự trữ ra mà nhóm cho củi cháy. Tìm củi khô không được, mấy anh cán bộ trung đội là lính cũ, có kinh nghiệm hơn đã chỉ bảo cho anh em tìm những khúc thân cây mà những toán bộ đội đi trước chặt làm cọc phụ mắc võng, đem tước vỏ cây ướt ra, lấy lõi cây khô bên trong, chẻ nhỏ đem về đun, nấu. Cứ thế loay hoay cả đêm, có khi bộ đội chỉ chợp mắt được một, hai tiếng. Mà không phải lúc nào cũng được nghỉ ở bãi khách đâu nhé, có những trạm trú quân bị lộ, máy bay địch đánh phá tan hoang, giao liên lại phải đưa quân đến những vạt rừng mới làm nơi tạm trú. Những bãi khách mới khai phá, cây cối um tùm, muỗi vắt nhiều vô kể, nguồn nước lại xa, nên bộ đội lại càng vất vả.
       Hành quân đến miền Tây Quảng Trị, chúng tôi vượt sông Bến Hải ở thượng nguồn, nơi dòng song lịch sử được lấy làm ranh giới chia cắt hai miền Năm – bắc của đất nước suốt hai thập niên. Khi đã sang đến miền Tây Quảng Trị, bộ đội đi qua những vùng rừng mênh mông bị trụi lá vì bị máy bay Mỹ rải chất độc hóa học, những thân cây cao vút, chìa ra những tán cành trơ trụi, khẳng khiu, không còn một chiếc lá, trông như “một khu rừng xương cây” trên hành tinh lạ. Quân đi qua những khu rừng chết suốt cả ngày dưới trời nắng, nóng, tuy khát khô cả cổ, nhưng lệnh trên truyền xuống: “Giao liên cho biết không được dùng nước suối”, vậy là lính ta phải cắn răng, xốc lại ba-lô, tiếp tục lên đường.
       Quân đến rồi lại đi, một ngày, một tháng, một năm có biết bao đợt quân vào, quân ra, có mấy ai nhớ tên binh trạm, có mấy ai nhớ đến những cô gái giao liên nhỏ bé, đội mũ tai bèo, vai khoác súng AK, bước chân nhanh như sóc, mỗi ngày đi hàng chục cây số, dẫn quân vượt qua các vùng rừng không dân, qua các tọa độ lửa để về nghỉ ngơi một đêm tại bãi khách an toàn. Cũng chính những cô giao liên tuổi mười tám, đôi mươi đó khi cần lại trực tiếp dìu một anh bộ đội bị ốm, hay khoác giúp cái ba-lô cho một chiến sĩ bị sốt rét rừng hành hạ. Những năm tháng chiến tranh, ai đã có dịp hành quân dọc Trường Sơn trên các tuyến đường quân sự, hẳn không thể quên hình ảnh của những đội nữ thanh niên xung phong phá bom, sửa đường ở các trọng điểm, hoặc những nữ chiến sĩ giao liên ngày đêm như con thoi trong rừng già, dưới bom pháo kẻ thù, dẫn những đội quân từ hậu phương miền Bắc vào chiến trường.
       Chiến tranh đã lùi xa, những danh từ thời chiến như: BINH TRẠM, BÃI KHÁCH, ĐƯỜNG GIAO LIÊN, TRẠM PHẪU TIỀN PHƯƠNG… quen thuộc với người lính một thời chưa xa, nay chắc chỉ còn xuất hiện trên những trang sách viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
                    


******************

8 nhận xét:

TranKienQuoc nói...

Bài viết rất thực, nêu cả mặt phải và trái của đời lính - quãng đời mà chúng tôi rất đỗi tự hào.

QV nói...

Mình rất ngưỡng mộ những người lính đã qua lửa như tác giả. Cũng là lính, mình ko có cơ hội được nếm trải những vất vả, hy sinh đó.
Chúc tác giả luôn vui, khỏe và viết khỏe.

NH nói...

Mình nghĩ rằng người lính chiến có 3 cái được trong đời:
1. Đã đi bộ hành quân vượt Trường sơn thì mọi gian nan trong cuộc sống chẳng có gì đáng ngại, tất cả là chuyện nhỏ.
2. Dám hy sinh tuổi 18-20 thì có gì cao quý hơn nữa, chẳng nhẽ bon chen cái chức vụ, tranh giành quyền lợi đời thường!....Nhưng dám hy sinh tiếp để bảo vệ chân lý bảo vệ quyền lợi dân tộc quyền lợi người dân đã vì đất nước hy sinh.
3. Được sống là hạnh phúc lắm rồi so với các đồng đội nằm lại chiến trường, các đồng đội hứng chịu chất độc gia cam, thương binh...Và tự nhủ sống có nghĩa tình hơn.
NH

Nặc danh nói...

Bạn đã khơi lên một đoạn trường
Cả dân tộc gặm nhấm đau thương
Tất cả lên đường ra chiến trận
Trong ngàn vạn ấy... cũng có Cường!
Ai nói "hạnh phúc... ở chiến trường"
Giục lòng thù hận lẫn đau thương
Trút lên nòng súng nhằm... ai đó
Khẩu hiệu tuôn ra... quá dị thường !!!
Việt Dũng cùng thời với Mạnh cường
Cũng xếp bút nghiên tới chiến trường
"Hồ hởi... hờn căm và... hãnh diện"...?
Cuối đời ngẫm lại... thấy đau thương!
Giờ đây nghĩ lại... thật bi thương
Máu đổ, xương rơi ở chiến trường
Huynh đệ tương tàn chung dòng máu
Dựng nên một nhóm... ở "Thiên đường"
..........................................................?
..........................................................!

... Tiếng còi tàu... gợi nỗi thương đau
Trắng thư rải dọc những đường tàu
Ôi... những chiến binh ngày xưa ấy
Một thời Oanh liệt nay còn đâu ?...!...

Cảm ơn VD đã gợi C nhớ lại cảm xúc của một thời... là Lính... và bây giờ... Đừng trách C quá lời, D nhé! Mình nghĩ rằng chất lính và tâm trạng của mình chắc cũng không khác VD là mấy... nhỉ...?

TranKienQuoc nói...

Có những hy sinh xương máu và cả tính mạng để giành được đôc lập dân tộc, hòa bình, tự do nhưng ngày nay nhìn thực tế làm những người lính xưa có cảm giác uổng công???

V.D nói...

Chào anh CƯỜNG bạn lính B5. Chẳng ai sống với quá khứ CƯỜNG nhỉ? Kể lại cho các bạn trẻ biết thêm chuyện ngày xưa thôi. Giờ chúng ta THIỀN rồi.

Nặc danh nói...

NH nói về 3 cái được của lính theo logic "thép được tôi" trong chiến trận của "trai thời loạn" thì đúng rồi, lịch sử xưa nay vẫn vậy. Chắc NH chưa đề cập đến những cái mất của NHAN DAN và CCB trong cuộc chiến ấy. Chưa nói nhưng ai cũng hiểu. Hiểu nhưng ít ai dám nói....

Viên Thạch nói...

Bài viết này gây nhiều cảm xúc quá. Cảm ơn tác giả vì những kỷ niệm rất đỗi tự hào.