Cả hai nước đều nhìn thấy các khu vực tranh chấp là lợi ích sống còn nhưng vẫn chưa đưa ra được phương thức rõ ràng trong việc khẳng định chủ quyền của mỗi nước.
Trong số các bên tranh chấp lãnh thổ và lãnh hải ở khu vực Biển Đông, Philippines và Việt Nam là hai nước mạnh mẽ lên tiếng và phản đối nhiều nhất việc Trung Quốc bành trướng sức mạnh trong khu vực. Cả hai nước biết rõ tiềm lực sức mạnh và vị thế của mình khó có thể so sánh với Trung Quốc nên họ đã cùng hợp tác với Hoa Kỳ. Manila và Hà Nội nhanh chóng trở thành những đối tác chiến lược trong chính sách “trục châu Á” của Washington, đồng thời thiết lập các mối quan hệ ngoại giao với các nước khác để tìm kiếm thêm nhiều sự ủng hộ.
Phillipines đã củng cố được sức mạnh quốc phòng và hải quân với sự giúp đỡ của Hoa Kỳ và Nhật Bản. Trong khi đó, Việt Nam tìm đến các đối tác truyền thống của họ như Ấn Độ và Nga – các quốc gia này hợp tác với nhau nhằm tạo ra một đà tiên phong để chống lại sức mạnh cũng như sự trỗi dậy của Trung Quốc trong khu vực. Ngoài ra, cả hai nước cũng đang tìm kiếm sự hỗ trợ từ các đối tác trong khối ASEAN.
Vấn đề tranh chấp biển Đông đã có một vài điểm đáng chú ý trong thời điểm vừa qua khi Phillipines đã mang “đường chín đoạn” ra toà án Liên Hiệp Quốc. Trong thời điểm trước đó, các bên tranh chấp đã tìm kiếm cách giải quyết khá nhạy cảm này thông qua các cơ chế khu vực và các cuộc đàm phán song phương. Có lẽ không ngạc nhiên khi Trung Quốc thấy khó chịu với động thái của Phillipines khi vấn đề tranh chấp đã từng được giao ước sẽ không quốc tế hóa. Có thể còn quá sớm để kết luận bất kì điều gì qua động thái đó của Manila, nhưng nó cũng là điểm đáng quan tâm để so sánh những nét tương đồng cũng như chênh lệch trong các chiến lược của Manila và Hà Nội trong vấn đề tranh chấp Biển Đông với Trung Quốc.
‘Tiến thoái lưỡng nan’ của Việt Nam
Chiến lược của Việt Nam được hình thành dựa trên nền tảng lịch sử, địa lý cũng như mối quan hệ kinh tế gần gũi với Trung Quốc. Nền kinh tế của Việt Nam phụ thuộc khá nhiều vào đầu tư và thương mại của Trung Quốc và sự phụ thuộc này đã hạn chế khá nhiều hành động của Việt Nam. Và quan trọng hơn, những điều này đã mang lai những mất mát khá đắt giá cho Việt Nam.
Bài học lớn nhất cho Việt Nam khi phải phụ thuộc vào Trung Quốc là mất chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974 và một phần quần đẩo Trường Sa (Johnson South Reef và Đá Chữ Thập). Do đó, Hà Nội có khá nhiều động lực và lí do để ngăn chặn hành động bành trướng sức mạnh của Trung Quốc. Các cuộc xung đột xảy ra trong thời gian qua giữa Hà Nội và Bắc Kinh xoay quanh những lần thăm dò khoáng sản biển của các nhà đầu tư nước ngoài, các buộc bắt giữ và sách nhiễu ngư dân, và những cuộc xung đột đó đã gây ra những làn sóng phản đối khá mạnh mẽ từ phía Hà Nội.
Tuy nhiên, bên cạnh các cuộc đụng độ là các sự kiện quan trọng mang tính tích cực giữa hai nước như phân định ranh giới đất liền, thiết lập vùng đánh cá chung tại Vịnh Bắc Bộ và gần đây nhất là lập đường dây nóng dành cho các hoạt động ngư nghiệp. Những hành động tích cực đó có thể hỗ trợ khá nhiều trong việc giảm thiểu “sự cố” trên biển phát sinh từ sự chồng chéo tại các khu vực đánh bắt cá mà hai bên đều lên tiếng tuyên bố có chủ quyền.
Cùng là hai nước xã hội chủ nghĩa với quá trình lịch sử có cả tranh chấp lẫn hợp tác đồng minh (Chiến tranh Lạnh và Chiến tranh Việt Nam), Hà Nội và Bắc Kinh đang thực hiện hợp tác dựa trên nhiều kênh chính thức lẫn không chính thức, bao gồm cả việc đàm phán Biển Đông. Những việc đó có thể kiểm soát những căng thẳng và không làm ảnh hướng đến các khía cạnh khác của mối quan hệ song phương, đặc biệt là thương mại và đầu tư.
Để có được những điều trên, không thể phủ nhận khả năng ngoại giao của Trung Quốc trong thời gian vừa qua. Trung Quốc đã giảm thiểu các cuộc xung đột với Việt Nam trong khi Bắc Kinh lại đang dính vào một vụ tranh chấp với Philippines tại Biển Đông. Việc Trung Quốc triển khai những chiến lược đúng đắn và đúng thời điểm với Việt Nam đã giúp mối quan hệ song phương được thúc đẩy mạnh hơn trong khi vẫn đang tranh chấp lãnh thổ và hàng hải. Những động thái này của Trung Quốc làm cho Việt Nam có khá ít “lí do” để ra quyết định thực hiện những động thái “nắn gân” như Philippines – thách thức các yêu sách của Bắc Kinh trước cơ quan quốc tế.
Tất nhiên, Việt Nam vẫn cố gắng tăng cường và mang chủ để Biển Đông ra trước diễn đàn ASEAN. Họ cũng đang cố gắng cải thiện quan hệ với Hoa Kỳ để chia sẻ mối quan tâm lẫn nhau với Philippines, mặc dù những hành động ủng hộ cho các quyết định của Manila về vấn đề tranh chấp Biển Đông tương đối khá ít. Những hành động trợ giúp ở thời điểm hiện tại chưa thể tạo cho Hà Nội – Manila một mặt trận chung để đối phó với Bắc Kinh. Một lần nữa, Hà Nội lại bị hạn chế trong sự lựa chọn của mình để đối phó với Bắc Kinh vì họ không thể tạo ra quan điểm rõ ràng hay đưa ra những quyết định “mạnh tay”.
Hà Nội sẽ tiếp tục bày tỏ rõ thái độ không đồng tình của mình đối với Trung Quốc trước Diễn đàn Khu vực ASEAN, và họ vẫn muốn bày tỏ quan điểm này trên các diễn đàn quốc tế qui mô nhỏ hơn. Trong khi đó, như các nước ASEAN khác – đặc biệt những nước có liên quan đến chủ quyền ở Biển Đông – Việt nam sẽ theo dõi chặt chẽ các động thái của Manila để có thể định hình lại chiến lược của mình cho phù hợp. Với thách thức pháp lý của Manila, Trung Quốc có thể sẵn sàng thỏa hiệp với Hà Nội nhằm cô lập Manila và hơn nữa là ngăn chặn việc hình thành một mặt trận thống nhất chống lại các yêu sách của Bắc Kinh trên Biển Đông.
Philippines cứng rắn
Trong khi đó, chiến lược Biển Đông của Philippines đối với Trung Quốc cũng đang tạo ra khá nhiều khó khăn cho Manila. Mặc dù có phần quản lý các đảo lớn nhất trong quần đảo Trường Sa nhưng khả năng quân sự của Manila vẫn còn khá hạn chế. Kể từ khi “mối đe dọa Trung Quốc” trở thành hiện thực, Philippines mới có các quyết đóng quân ở Mischief Reef – 2 năm sau sự kiện dời các căn cứ quân sự của Hoa Kỳ tại Philippines. Tranh thủ cơ hội này, Bắc Kinh đã tăng cường sự hiện diện của hải quân và cộng sự với số lược lớn trên khu vực.
Từ khi Hiệp ước Phòng thủ chung với Hoa Kỳ năm 1951 kết thúc, Philippines đã gặp vấn đề về quân sự khá lớn. Hiện có nhiều lo ngại rằng quan hệ Trung–Mỹ sẽ phát triển, trong đó Washington ngầm liên kết với Bắc Kinh để củng cố vị trí của mình trên Biển Đông. Những điều này đang có nguy cơ trở thành hiện thực và đem lại cho Philippines thách thức trong việc buộc phải đa dạng hóa các đối tác an ninh để có những hành động độc lập về quân sự trong tương lai. Tuy nhiên, Hoa Kỳ vẫn là đối tác quan trọng của Philippines, đặc biệt về thương mại và an ninh bất chấp những thăng trầm trong mối quan hệ giữa hai nước.
Manila đã đóng cửa các căn cứ quân sự của Hoa Kỳ ở Subic và Clark vào năm 1991 nhưng vẫn cho phép quân đội Mỹ trở lại vào năm 1999 thông qua các hiệp định về thăm viếng quân sự, từ đó trở thành một đồng minh quan trọng trong cuộc chiến chống khủng bố. Bên cạnh trở thành một đối tác quan trọng trong chính sách “tái cân bằng” của Hoa Kỳ, Philippines cũng đã tăng cường quan hệ đối tác với Nhật Bản, chia sẻ mối quan tâm chung trong việc tranh chấp chủ quyền Biển Đông với Trung Quốc. Các mạng lưới đối tác này mang lại khá nhiều biện pháp và động lực cho Philippines trong việc chống lại các chính sách của Bắc Kinh.
Do đó, chúng ta có thể thấy sự khác nhau trong việc sắp xếp quyền lực và chiến lược giữa Việt Nam và Philippines. Hơn nữa, trái ngược với Việt nam, Philippines không bị phụ thuộc vào đầu tư và thương mại với Trung Quốc. Trong thời điểm hiện tại thì Hoa Kỳ và Nhật Bản mới là đối tác thương mại chính của Philippines. Quan hệ giữa Trung Quốc và Philippines đúng là đã phát triển trong thời gian vừa qua nhưng Philippines chắc chắn đã thấy được ảnh hưởng của Trung Quốc trong các quyết định hạn chế nhập khẩu chuối và du lịch. Tuy nhiên, với mức cam kết kinh tế tương đối thấp đồng nghĩa với việc trừng phạt kinh tế của Trung Quốc vẫn chưa đủ để buộc Philippines phải thay đổi ý kiến, ít nhất là cho đến thời điểm hiện tại. Ví dụ, Philippines đã có thể bù đắp sự thâm hụt thị trường Trung Quốc đối với xuất khẩu chuối bằng cách xuất khẩu sang Hoa Kỳ.
‘Lợi ích sống còn’ của hai nước
Tuy nhiên, sự nổi lên của Trung Quốc và việc dần mất vị thế Hoa Kỳ đã tiếp tục tạo ra bóng đen lớn ở khu vực Biển Đông. Mặc dù một số nước ASEAN đã hoan nghênh chính sách “tái cân bằng” của Hoa Kỳ nhưng các nước đó đã có những mối quan hệ kinh tế khá sâu đậm với Trung Quốc trong thời gian vừa qua. Do đó, Biển Đông có thể trở thành lí do cho sự chia rẽ giữa các nước trong khu vực. Điều này đã làm các lãnh đạo Philippines tin rằng ASEAN không thể trở thành một diễn đàn tin cậy và hiệu quả trong việc đối phó với Trung Quốc tại Biển Đông. Các quốc gia có tranh chấp lãnh hãi từ lâu đời và chưa được giải quyết với Trung Quốc như Nhật Bản hay Ấn Độ có thể trở thành những hỗ trợ nhỏ trên vấn đề tranh chấp, nhưng các cam kết và động thái của các nước đó vẫn chưa tạo được dấu ấn thực sự quan trọng.
Biển Đông là vùng biển mang tầm chiến lược an ninh, chính trị và kinh tế quan trọng cho cả Philippines lẫn Việt Nam. Cả hai nước đều thấy việc tuyên bố chủ quyền tại khu vực Biển Đông là yếu tố quan trọng đối với an ninh quốc gia, các kênh thương mại quan trọng, ngư trường truyền thống và nguồn tài nguyên năng lượng ngoài khơi đã trở thành những lợi ích cốt lõi không thể tách rời lãnh thổ của họ. Tuy nhiên, khi cân nhắc đến lịch sử, kinh tế và chính trị đã khiến cho hai nước có những chiến lược Biển Đông khác nhau, đặc biệt là vấn đề đối phó với Trung Quốc.
Trinh Nguyen Vu
1 nhận xét:
Muốn có thắng lợi đối ngoại ngoài khả năng về ngoại giao còn cần đến kinh tế, quân sự và đoàn kết chính trị trong nước. Không có chỗ dựa vững chắc trong nhà thì khó mạnh miệng với người ngoài. Không có sức mạnh kinh tế thì há miệng mắc quai. Không có sức mạnh quân sự thì lời nói nhẹ như gió thoảng mây bay. Trong các việc trên, việc quan trọng nhất vẫn là làm cho "trên dưới một lòng", mà để được việc này thì phải "diệt giặc nội xâm". Tình trạng tham nhũng hoành hành chính là điểm yếu nhất của mọi điểm yếu.
Đăng nhận xét