Thứ Hai, 1 tháng 9, 2014

Ủy ban Khởi nghĩa HN 19/8/1945 gồm những ai?

Tuấn Phong, chú em làm ở Báo Nhân dân đặt viết bài cho dịp 2/9. Khó quá, viết gì đây. Thôi thì viết ra những điều ít người biết cũng là tốt rồi.


Quốc khánh 2/9 – Hồi ức theo những mốc thời gian
TRẦN KIẾN QUỐC

Chúng tôi là lứa sinh ra ở giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến lần thứ nhất chống Thực dân Pháp, được lớn lên sau 1954 khi miền Bắc bắt tay vào xây dựng CNXH... Rồi hàng chục năm trôi qua với hàng vạn sự kiện của đất nước, khi đứa nào cũng đã qua cái mốc 60, cứ mỗi lần Thu sang, lại bồi hồi nhớ lại những kỉ niệm của những ngày Quốc khánh.

Quốc khánh thứ 15
Đó là ngày 2/9/1960. Gia đình tôi khi đó sống ở khu tập thể quân đội, số 38 phố Trần Phú, ngay ngã tư với đường Điện Biên. Quốc khánh năm ấy lớn lắm. Các gia đình trong khu đều đón bà con họ hàng ở quê lên “ăn Quốc khánh”. Nhà nào cũng nghe thấy tiếng gà quang quác rồi bếp nào cũng thơm nức mùi nếp mới cùng lạc, vừng… vừa thu hoạch. “Ấy là những món quà quê, nhà làm được, của chúng tôi mang lên góp tiệc ăn mừng”, nghe bà con ở quê ra nói thế.


Cũng từ đêm trước, bà con ở ngoại thành đã mang cả chiếu ra trải ở hè phố, nằm chờ cho đến sáng. Sớm 2/9, từ 3-4g, mọi nhà đã sáng đèn rồi mọi người lục tục kéo ra phố. Trời sáng dần, thấy bà con đã đứng kín hai bên đường.
Và phải chờ cho tới 8g, sau khi đội hình duyệt binh cùng xe pháo đã diễu hành qua lễ đài trên Quảng trường Ba Đình, có một đoàn theo đường Điện Biên hành quân về Tràng Thi để lên Bờ Hồ thì bà con dọc phố tôi được chiêm ngưỡng những hình ảnh đẹp nhất của lực lượng tinh nhuệ, oai hùng của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng.
Đi đầu là chiếc com-măng-ca với Quân kỳ quyết thắng gắn đầy huân chương. Anh bộ đội nào cũng oai phong với súng giương lê tuốt trần, đầu đội mũ căng lưới, trên mình khoác bộ quân phục mới tinh; xe pháo vừa được sơn nước sơn mới, bánh xe nào cũng có vành sơn trắng... Dân chúng ven đường với những tràng vỗ tay, với những lá cờ đỏ sao vàng trên tay vẫy vẫy… Xôn xao khó tả, mừng vui khôn xiết.

            Quốc khánh lần thứ 20 - 2/9/1965 và… sau đó
            Trước đó 1 năm, ngày 5/8/1964, sau Sự kiện vịnh Bắc Bộ, đế quốc Mỹ chính thức mở rộng chiến tranh, leo thang ra miền Bắc.
            Ngày đó, Trường Văn hóa quân đội Nguyễn Văn Trỗi của chúng tôi bắt đầu năm học mới tại nơi sơ tán ở vùng rừng núi An Mỹ, Đại Từ, Thái Nguyên, xa Hà Nội gần trăm cây số. Cả nước đã vào chế độ thời chiến, việc tổ chức long trọng cháo mừng Quốc khánh lần thứ 20 không cho phép. Mọi việc phải xé lẻ, chia nhỏ đúng “tinh thần thời chiến”.
            … Phải cho đến 2/9/1975, sau chiến thắng vĩ đại của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, chúng ta mới lại có một Quốc khánh lớn, long trọng, hồ hởi khi cả nước thống nhất về một mối.
            Tưởng chừng 2/9/1980 là Quốc khánh được tổ chức lớn thì ngày 17/2/1979 đã nổ ra Chiến tranh biên giới phía Bắc, ngay sau Chiến tranh Biên giới Tây Nam. Cuộc chiến ấy kéo dài cả chục năm. Cũng chừng ấy năm, mỗi lần Quốc khánh đến là mỗi lần đau sót, trăn trở khi biết được hàng vạn chiến sĩ ta đã anh dũng hy sinh, thậm chí còn nhiều hơn chiến tranh chống Mỹ; nhiều vùng đất, vùng biển của ta bị Trung Quốc xâm lấn.

Nhìn lại Tổng khởi nghĩa 19/8/1945
Không phải để khoe khoang nhưng có thể tự hào mà nói rằng, cha mẹ chúng tôi là những người trực tiếp tham gia lãnh đạo Tổng khởi nghĩa 19/8/1945 ở Hà Nội, để sau đó hơn chục ngày, lịch sử Việt Nam ta chính thức lật sang trang mới – Nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa!
Phải nói trong nhiều, nhiều năm, chúng ta chỉ biết cả dân tộc đã có một sự kiện trọng đại – Tổng khởi nghĩa 19/8/1945 nhưng ít ai biết những người trực tiếp lãnh đạo là ai?
Nguyễn Khang (1919-1976),
ảnh chụp 1957.

Trần Đình Long (1904-1945).

Trần Quang Huy (1922-1995).

Nguyễn Duy Thân (1917-1952).

Nguyễn Quyết (1922).

Trần Tử Bình (1907-1967),
ảnh chụp 1949.

Ông Lê Trọng Nghĩa trước Nhà hát Lớn Hà Nội, nhân kỉ niệm 60 năm Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội 19/8/1945.


Để trả lời câu hỏi “Vì sao?” thì có nhiều lí do, xin không bàn ở đây. Nay xin giới thiệu lại, Ủy ban Khởi nghĩa Hà Nội ngày đó gồm Ủy viên thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ Nguyễn Khang (Nguyễn Văn Đệ) là Chủ tịch cùng 4 ủy viên: Nguyễn Quyết - ủy viên Quân sự, Nguyễn Duy Thân - đại diện giới Công thương, Nguyễn Huy Khôi (Trần Quang Huy) - đại diện Công vận, Lê Trọng Nghĩa - đại diện giới nhân sĩ, trí thức. Ông Trần Đình Long (tốt nghiệp Đại học Phương Đông khóa 1928-31, vừa vượt tù Sơn La) được Xứ ủy giao nhiệm vụ cố vấn.
Và cho đến hôm nay, chỉ còn lại 2 người: đại tá Lê Trọng Nghĩa và đại tướng Nguyễn Quyết. Các cụ đều đã qua tuổi 90 mấy năm nay.
… Cách đây không lâu tôi đến thăm cụ Lê Trọng Nghĩa tại khu tập thể quân đội, không xa Bảo tàng Hồ Chí Minh (Hà Nội). Vừa yên vị, ông đã dí dỏm: “Sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, có người hỏi: Các ông có xem ngày, chọn giờ hay không mà Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội lại thắng lợi nhanh, gọn đến vậy?”.
Cụ nhớ lại, khi đang là học sinh Thăng Long, đi rải truyền đơn, rồi bị mật thám Pháp bắt và tống giam Hỏa Lò từ đầu 1942. Đêm 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp ở Hà Nội. Lợi dụng sự quản lí còn lỏng lẻo mà hơn 100 tù chính trị đã thoát ngục Hoả Lò theo 2 đường “thăng thiên” và “độn thổ” về với phong trào.
Ông Nghĩa, khi đó mới 23, được giao nhiệm vụ bảo vệ tử tù Trần Đăng Ninh (Bí thư Xứ uỷ Bắc kỳ), trốn theo đường vượt rào trong đêm 11/3 cùng số ít tù chính trị (vì đường này sớm bị lộ, do cánh thường phạm tranh nhau ra trước). Sau này anh em tù chính trị Hỏa Lò gọi đó là đường “thăng thiên”.
Sớm hôm sau, khi lang thang trong sân Trại J thì nhìn thấy cái nắp cống ngầm mà Xứ uỷ viên Trần Tử Bình nảy ra ý tưởng vượt ngục theo đường chui cống ngầm. Ông giao cho 3 tù chính trị Phan Vân, Trần Văn Cử, Nguyễn Huy Hòa cạy nắp cống, chui xuống, dò tìm đường ra. Sau mấy tiếng đồng hồ lần mò trong hệ thống cống hôi thối, tối tăm, ông Cử và ông Vân trở về thông báo “Đã tìm thấy lối ra”.
Ngay đêm đó, các tù chính trị bị án nặng được chọn lựa đi trước, tập trung ở Trại J. Khoảng 8g, ông Bình phát lệnh “Mở nắp cống”. Nhóm tiên phong có ông Bình và 3 ông Phan Vân, Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Hòa. Nhóm thứ 2 là Trần Văn Cử, Nguyễn Cao Đàm, Đỗ Mười. Tổng số 29 đồng chí đã thoát ra trong đêm 12/3/1945. Rồi lần lượt các đêm sau có đến hơn 100 tù chính trị tiếp tục thoát ra ngoài.
Tháng 5/1945, ông Nghĩa được ông Lê Đức Thọ phân công sang Dân chủ Đảng cùng ông Vũ Quý. Ban Cán sự nhanh chóng nắm các nhân sĩ, trí thức, công chức, sinh viên, học sinh trong Dân chủ Đảng. Họ là những người yêu nước, sẵn sàng theo Việt Minh.
Đầu tháng 8/1945, các đồng chí trong Trung ương và Xứ uỷ Bắc Kỳ được triệu tập lên Tân Trào. Riêng 2 uỷ viên Thường vụ Xứ uỷ được phân công ở lại: Nguyễn Khang phụ trách Hà Nội; Trần Tử Bình trực cơ quan Xứ uỷ (đóng ở ATK Vạn Phúc, Hà Đông) theo dõi 10 tỉnh đồng bằng Bắc bộ.
Không khí những ngày này sôi sục. Khi thăm dò anh em công chức Hà Nội, có ý kiến: nên khởi nghĩa vào ngày chủ nhật và “giờ hành động” nên chọn vào 10 giờ sáng sau hồi còi gắn trên nóc Nhà hát Lớn, ga Hàng Cỏ, Nhà Tiền (nay là Nhà máy In Tiến Bộ) đồng loạt nổi lên.
Thời kì đó, liên lạc toàn qua ZT (giao thông chạy bộ). Chỉ thị của trên Trung ương đến nơi phải mất cả tuần lễ. Nhưng nắm chắc chỉ thị “Nhật-Pháp đánh nhau và hành động của chúng ta” và dựa vào thực tế cách mạng của Hà Nội mà Thường vụ Xứ uỷ Bắc kỳ quyết định thành lập Uỷ ban khởi nghĩa Hà Nội.
Sáng 17/8, Thành ủy báo cáo: Buổi chiều sẽ có mit-tinh của công chức ủng hộ “nền độc lập” của chính phủ Trần Trọng Kim, tại Nhà hát Lớn. Ông Khang chỉ thị dùng lực lượng tự vệ phá mit-tinh, sau đó thì rút. Nhưng không khí hừng hực, sục sôi của quần chúng cách mạng biến mit-tinh của giới công chức thành tuần hành, thị uy của quần chúng cách mạng; mặt khác thấy quân đội Nhật cùng lính bảo an, cảnh sát không dám phản ứng. Vì vậy ngay trong đêm 17/8, Thường vụ quyết định chọn ngày chủ nhật 19/8/1945 là ngày Tổng khởi nghĩa.
Ông Nghĩa còn nhớ: “Đêm mà Uỷ ban quân sự cách mạng triệu tập hội nghị cán bộ mở rộng ở Dịch Vọng, 2 ông Nguyễn Huy Khôi và Nguyễn Quyết chủ trì. Tôi đến chậm. Giữa cái không khí ồn ào nghe thấy giọng lanh lảnh của một nữ cán bộ trẻ, xinh xắn: “Này, khi nào vào chiếm công đường, bắt bọn cầm đầu thì phải chú ý triệt ngay bọn lính dõng, bảo an. Nếu không chỉ vài phát súng nổ vào sau lưng quần chúng là tan hết…”. Đây là kinh nghiệm xương máu tại một huyện ở Bắc Ninh mà chị đã gặp. Đối với Uỷ ban Quân sự cách mạng Hà Nội, đối với những người chưa từng lãnh đạo khởi nghĩa vũ trang thì đây là một lời cảnh báo hết sức quý báu”.
(Sau này mới biết đó là bà Phan Thị Sang, em gái ông Phan Trọng Tuệ. Ít lâu sau, bà xây dựng gia đình với ông Nguyễn Duy Thân. Đầu năm 1946, ông Nghĩa gặp lại ông bà cùng là đại biểu khóa I của Quốc hội lập hiến).
Ngày 18/8, trụ sở Uỷ ban quân sự cách mạng chuyển vào nội thành, đóng tại số nhà 101 Gambetta (nay là 101 Trần Hưng Đạo, cũng của gia đình anh em thuộc tổ chức Việt Minh Hoàng Diệu).
Và sáng ngày 19/8, đúng 10 giờ, sau “hiệu lệnh còi”, mit-tinh tại quảng trường Nhà hát Lớn bắt đầu. Sau vài phát súng thị uy, cả quảng trường vang lên bài “Tiến Quân Ca”. Ngay sau hiệu triệu của Ủy ban Khởi nghĩa, hàng chục vạn quần chúng cách mạng chia làm 2 ngả tấn công vào Phủ Khâm sai - cơ quan đầu não của chính quyền cũ và Trại Bảo an binh - nơi tập trung lực lượng quân sự mạnh nhất. Tại các huyện ngoại thành, sau “hiệu lệnh 10 giờ” cũng nhất loạt đánh chiếm các trung tâm hành chính.
Ông Nghĩa tiếp: “Tôi và anh Thân theo sát anh Khang, anh Bình tiến về Phủ Khâm sai. Bên trong hàng rào những nòng súng chĩa ra nhưng không dám nổ. Ta thuyết phục và bên trong cũng đã có nội ứng. Tại cổng chính, một nhóm tự vệ trèo qua rào. Rồi các cổng mở toang.
Tại sảnh chính vừa thấy Nguyễn Xuân Chữ (đại diện chính quyền bù nhìn, vừa thay cụ Phan Kế Toại), anh Bình lệnh bắt, giải về ATK ở Vạn Phúc, Hà Đông. Thấy điện thoại réo vang, các tỉnh hốt hoảng gọi về, anh Bình yêu cầu tổng đài nối máy với các tỉnh, ra lệnh: “Việt Minh đã giành chính quyền ở Hà Nội. Chính quyền các tỉnh phải mau chóng đầu hàng Việt Minh! Nếu không sẽ bị xử tử!”.
Lực lượng do ông Nguyễn Quyết vừa chiếm được Trại Bảo an binh (đối diện rạp phim Majestic, nay là rạp Tháng Tám) thì quân Nhật dùng xe tăng và binh lính tới bao vây. Tình thế căng thẳng, dễ xảy ra đổ máu. Thường vụ hội ý rồi cử ông Nghĩa phóng xe Limousin cắm cờ đỏ sao vàng ra điều đình. Chỉ huy Nhật chấp nhận rút quân nhưng yêu cầu “phía nổi loạn phải gặp chỉ huy tối cao của họ”. Như vậy đến chiều 19/8, Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội về cơ bản đã thành công rực rỡ; không hề đổ một giọt máu và hàng nghìn khẩu súng về tay nhân dân.
Tối 19/8, ông Nghĩa cùng “cố vấn” Trần Đình Long được cử đi gặp Toàn quyền Nhật ở Đông Dương. Căng thẳng nhưng sau đó họ cũng chính thức chấp nhận chính quyền nhân dân. Khi trở về, đã 12 giờ đêm. Đèn trong trụ sở vẫn sáng trưng. Thường vụ Xứ uỷ họp ra quyết nghị thành lập và ra mắt chính quyền mới vào ngay sớm hôm sau.
Sáng hôm sau, tại vườn hoa Con Cóc trước Dinh Khâm sai, chính quyền cách mạng lâm thời ra mắt quốc dân, đồng bào. Ông Nguyễn Khang là Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân cách mạng Bắc bộ, Nguyễn Duy Thân phụ trách các cơ quan hành chính, Lê Trọng Nghĩa phụ trách đối ngoại.
Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân cách mạng Hà Nội là ông Trần Quang Huy, uỷ viên là Phạm Tuấn Khánh...

            Bác về, Tuyên ngôn Độc lập và Quốc khánh 2/9/1945
            Giữa lúc chính quyền mới đang còn bề bộn với bao nhiêu việc thì Trung ương về đến Hà Nội. Ngày 23/8, đồng chí Lê Đức Thọ đón Bác Hồ từ Việt Bắc về đến thôn Phú Gia, xã Phú Thượng (nay là phường Phú Thượng thuộc quận Tây Hồ).
Ngày 25/8, đồng chí Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Lương Bằng, Trần Đăng Ninh… đưa Bác đến ngôi nhà 48 Hàng Ngang (của ông bà Trịnh Văn Bô). Tại đây, Bác đã tự tay soạn thảo Tuyên ngôn Độc lập.
            Và sáng ngày 2/9/1945, chỉ sau Tổng khởi nghĩa 19/8 đúng 2 tuần lễ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã long trọng đọc Tuyên ngôn Độc lập, công bố với toàn thể quốc dân đồng bào và toàn thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đã ra đời!

Vĩ thanh
Nhân kỷ niệm 60 năm Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội (19/8/1945 – 19/8/2005), Thành uỷ và UBND TP Hà Nội tổ chức mít-tinh trọng thể tại Nhà hát Lớn, Ông Lê Trọng Nghĩa là một trong những vị khách mời đặc biệt.
Ông Lê Trọng Nghĩa (bìa trái) và ông Vũ Oanh (nguyên Ủy viên Bộ Chính trị) cùng các bạn ở Việt Minh Hoàng Diệu trong ngày lễ lớn 19/8/2005 tại Hà Nội.
Được gặp lại những đồng chí cũ của ngày này  năm xưa, ông bùi ngùi nhắc tới những đồng đội đã ra đi. Lúc chia tay những đồng đội già, còn nghe giọng tâm đắc của ông: “Hà Nội đã biết vận dụng sáng tạo chỉ thị của Trung ương, dùng áp lực của quần chúng cách mạng có hỗ trợ của tự vệ vũ trang, kết hợp với đấu tranh chính trị, thương thuyết giành chính quyền về tay”.
Và đến hôm nay đã gần 70 năm, ông vẫn có những nhìn nhận rất xác đáng: “Giá chậm thời điểm Tổng khởi nghĩa lại nửa ngày thì không hiểu lịch sử sẽ diễn biến ra sao!”. Vì sáng hôm sau, 20/8/1945, lực lượng vũ trang của ta trên Thái Nguyên do ông Võ Nguyên Giáp chỉ huy đã tấn công vào đơn vị đồn trú của Nhật. Vậy mà trước đó chỉ mấy tiếng đồng hồ, tướng Tsuchihashi - Tổng tư lệnh kiêm Toàn quyền Nhật - đã xác định “không can thiệp vào công việc của người Việt”, mặc nhiên thừa nhận “nhà chức trách đương quyền” tại Bắc bộ Phủ.
Việc lựa chọn ngày, giờ khởi nghĩa vì do hợp lòng dân nên chỉ trong đúng có một ngày, quần chúng cách mạng Hà Nội đã đứng lên, giành chính quyền về tay, không phải nổ một phát súng, không phải đổ máu!
“Ngày 19-8-1945 mở đầu một kỷ nguyên mới của nước Việt Nam độc lập, của một dân tộc được làm chủ chính mình và hoàn toàn tự do! Đúng như  Lênin đã dạy “Cách mạng là sáng tạo!” và chính nhân dân Hà Nội đã dạy cho chúng tôi, những người lãnh đạo khởi nghĩa, biết phải làm gì! – vị đại tá già, nguyên Cục trưởng Cục Quân báo QĐNDVN, vẫn say sưa - ... Còn ngày nay, công cuộc đổi mới chỉ có thể thắng lợi, đất nước chỉ có thể giữ vững chủ quyền khi chúng ta thực sự tin tưởng vào dân, biết dựa vào sức mạnh của dân!”.
Là thế hệ con cháu, tôi tin vào những gì ông đã chia sẻ.


2 nhận xét:

QV nói...

Ngày ấy, mới ở độ tuổi thanh niên, các cụ đã làm được những việc to lớn, vĩ đại. Thế hệ chúng ta để Đất Nước mãi lẹt đẹt, dân mãi vất vả, hình ảnh Việt Nam trong con mắt quốc tế không mấy đẹp. Xấu hổ với các cụ và cả với các thế hệ sau.

TranKienQuoc nói...

Đa số các cụ chỉ toàn ngoài 20 mà dũng cảm thật.