Tết. Mồng ba.
Tôi đi thăm chúc tết gia đình mấy người bạn cũ. Tình cờ gặp người bạn học với
nhau từ thời thiếu sinh quân Nguyễn Văn Trỗi ngày xưa. Dễ đến gần bốn chục năm
chúng tôi mới gặp nhau. Chuyện xa, chuyện gần, rồi tới chuyện gia đình. Bạn hỏi:
“Sao vợ con muộn thế?”. Biết trả lời bạn sao đây!? Trong vô vàn những lý do, những trục trặc
khách, chủ quan tôi chẳng hiểu đâu là lý do chính, đâu là phụ? Tôi phỏng đoán,
vợ muộn cũng có thể một phần là lý do sau đây chăng?
Chẳng muốn tin
nhưng rõ ràng nếu không thì làm sao mà tình duyên tôi cứ vật vã, trắc trở, lận
đận mãi thế?
Một sáng cuối thu, trời trung du se se ngọn
gió heo may. Cô bạn hớt hơ hớt hải chạy tới chỗ tôi báo tin và mời chúng tôi đi
dự đám cưới. Trước khi về cô bạn nói nhỏ:
- Cái Hà dưới Tam Dương, bạn học lớp mười với
chúng em, nó “cưới chạy”. Chủ nhật tuần tới bọn anh phải đi dự với chúng em đấy.
Không đi là không được đâu!
Quái! Chúng tôi đã gặp Hà bao giờ đâu? Và
cũng chả có quan hệ gì, hơn nữa thiệp mời cũng chả có. Đi là đi thế nào? Cô bạn
của mình sao hôm nay lại “tự nhiên chủ nghĩa” thế?
Tưởng nói chơi, ai dè thật. Sáng chủ nhật
đang “cầy ải” chuẩn bị cho môn thi sáng thứ hai, nghe trực ban báo có khách. Tôi
lò mò đi ra cổng trường, thì đã thấy bốn em trang phục chỉnh tề, với bốn chiếc xe đạp dựng kế bên. Trên Poóc-ba-ga
một chiếc xe đã buộc sẵn một gói to, tôi đoán chắc là quà mừng đám cưới.
Tôi trình bày hoàn cảnh là ba ông bạn không
đi được vì phải ôn thi. Nghe tôi nói bốn em mặt như chảy ra buồn thiu.
- Thế còn anh, anh phải đi với chúng em! - Một
em giọng chua như mẻ the thé cất lên như ra lệnh.
Tính tôi hay
cả nể và ham vui nên dù biết sáng thứ hai thi và bài vở cũng chưa ôn được bao
nhiêu, nhưng trước các người đẹp tự nhiên lòng tôi rũ ra như rau cải phải nắng,
chẳng còn chủ động được gì. Hơn nữa thấy
nói đi dự đám cưới tôi cũng thấy háo hức vì từ bé tới giờ có được ai mời hoặc
được ai “rủ rê” đi dự đám cưới bao giờ đâu. Thế là trong cái đầu mải chơi của
tôi việc thi cử quan trọng, lúc này tôi chỉ coi là “bướm” con chuột nhắt. Tôi
quyết định rất nhanh:
- Thôi được anh sẽ đi với bọn em, dưng mà phải
về sớm đấy. - Tôi giao hẹn.
Thế là chúng tôi rồng rắn lên đường.
Trên đường đi tự dưng tôi thấy ngài ngại. Bắt
đầu dao động, và điều này đã tác động tới lập trường, vốn rất hay thay đổi của
tôi. Tôi thủ thỉ với các em:
- Anh
chẳng quen biết ai, cả nhà trai lẫn gái nên ngại lắm. Anh sẽ ngồi chờ ở ngoài
khi nào đám cưới tan anh sẽ đón.
- Không được! Ai lại thế! - Bốn cái mồm chẳng
ai bảo ai các em cùng một lúc phản ứng quyết liệt.
- Anh cứ nói anh
là bạn học cùng lớp hồi vỡ lòng với cô dâu. Với lại chẳng ai cật vấn anh trong
ngày trọng đại, ngày vui như thế này. Anh cứ theo bọn em, chúng em đi đâu anh
đi đấy, bọn em ngồi mâm nào thì anh ngồi mâm ấy, bọn em gắp miếng nào anh gắp
miếng ấy, chả việc gì phải sợ.
Thấy mấy em nói có lý nên tôi cũng xuôi
xuôi. Thế mới biết cái anh cấp phó, phụ trách chính trị trong quân đội nó quan
trọng như thế nào, thế mà từ trước tới nay chúng tôi cứ ngoạc mồm ra chửi “mấy
ông này là đồ con vịt, vô tích sự”.
Đường từ Vĩnh Yên tới nhà gái trên Tam Dương chỉ khoảng hơn hai
mươi cây số nhưng đường đồi quanh co lên lên, xuống xuống nên hai tiếng đồng hồ
sau khi xuất phát chúng tôi mới tới nơi.
Nhà gái nằm trên sườn đồi, xung quanh cây lá
xanh ngắt, cổng vào nhà được trang hoàng lộng lẫy, bằng hai hàng cau và những
tàu lá cọ được đan lại với nhau, có gài xen kẽ những bông hoa dại, tôi chỉ nhận
ra được hoa mua. Đẹp và lãng mạn.
Vì là thằng
đàn ông duy nhất trong đoàn nên tôi nhận trách nhiệm bê quà mừng. Chẳng biết
quà là gì, dù trông to và “đồ sộ” thế nhưng khi bê tôi thấy rất nhẹ. Được bọc
bằng giấy báo và phía ngoài thêm một lớp giấy điều cho lịch sự.
Vừa bước vào đến cổng, bất ngờ tôi bị một ông
dáng chừng trong ban tổ chức la tướng lên:
- A đây rồi!
Và lao ngay tới chỗ tôi, một tay ông ta xỏ qua
nách, quàng lấy vai, lôi tôi xềnh sệch về phía cái sân gạch, bên trên được che
bằng những cái vỏ chăn nhiều màu sắc sặc sỡ. Qua sân gạch là ngôi nhà ngói năm gian đã khá đông khách đang ngồi dùng tiệc. Vì vướng
hai tay đang bê chồng quà và quá bất ngờ, mấy cô bạn tôi chỉ kịp vội nắm lấy
tay bên này của tôi kéo ngược lại. Tôi trong hoàn cảnh như bức tranh dân gian
Đông Hồ - Đánh ghen. Không bên nào chịu bên nào.
Ông trong ban
tổ chức nói lớn:
- Mâm các cụ trên nhà còn thiếu, chờ mãi,
chỉ cần thêm một cụ nữa là đủ mâm.
Thế quái nào
cá nhân lại quan trọng thế, gần ba mươi phút đồng hồ mà không có thêm cụ nào
tới. Để bốn cụ ngồi chờ, nhìn mâm e không tiện. Dịch vị dù có nhiều bao nhiêu
thì nó cũng chỉ có giới hạn. Nên ban tổ chức quyết định: Bất cứ khách đàn ông
nào tới, không phân biệt tuổi tác, sẽ được thay vào vị trí thiếu ở mâm các cụ
theo tục làng, để các cụ nhập tiệc.
Khi đi, bước chân trái thế quái nào tôi rơi
đúng vị trí ấy. Thế là một bên là các em hừng hực sức lực tuổi đôi mươi, với
những cặp vú to tròn hằn lên sau làn áo mỏng áp chặt vào lưng tôi (tôi vẫn cảm
nhận được giây phút ấy cho tới bây giờ, dù thới gian quá vãng đã gần 40 năm!!!),
kiên quyết giữ “lời hứa”. Một bên là ông trong ban tổ chức người săn chắc, khoẻ
như một thợ cày chuyên nghiệp, kiên quyết giữ “chủ quyền”, chả bên nào chịu bên
nào.
Bất đồ chồng quà tôi đang bê
tuột khỏi tay, rơi đến “xoảng” một cái xuống nền sân gạch, tấm giấy điều mỏng
bung ra. Tôi lạnh hết cả người.
Bỗng có một ai đó giọng the thé la
toáng lên:
- Cái mâm, giữ lấy cái mâm! Nó lăn, nó lăn... kìa nó lăn...
Thì ra tặng phẩm là một cái mâm nhôm và mấy
cái nồi sắt tráng men. Chẳng biết thế quái nào chiếc mâm lại rơi theo chiều
thẳng đứng và thế là nó lăn. Nó lăn trên nền
sân gạch thoải dốc theo sườn đồi, do quán tính, cứ thế lăn nhanh băng
qua sân và lao đến tõm một cái xuống cái ao phía bên này. Thế có chết bỏ mẹ
không cơ chứ. Thật là dở khóc dở cười. Cũng may người nhà nhiệt tình cho người
cởi phắt quần áo, nhảy ùm xuống ao, vớt ngay trong cái se lạnh tiết cuối thu
vùng sơn cước.
Cuối cùng tôi cũng không thể thoát được lệ
làng. Ngồi mâm các cụ rượu thì không biết uống, ăn chẳng dám ăn, để mặc các cụ
ngồi nhắm, chuyện trò. Tôi buông mắt lơ đãng nhìn và tự dưng thấy ghen tị
với hai con bồ câu đang tranh nhau “xơi
tái” trái tim trên tấm phông to tướng treo giữa nhà. Bên cạnh là câu khẩu hiệu
“Vui duyên mới không quên nhiệm vụ”, đối diện là một khẩu hiệu khác rất mạnh mẽ
“Kiên quyết chỉ đẻ một con”.
Tôi chạnh lòng. Vui đâu không biết, đẻ đái gì
tôi cũng chẳng quan tâm, trong bụng tôi lúc này đang réo sôi ùng ục, nước miếng
thì tứa ra chẳng biết có phải vì mâm cỗ hay vì cái gì, nhưng rõ ràng lúc này
tôi chỉ muốn được như đôi chim bồ câu kia hồn nhiên thưởng thức món “trái tim”
ngon lành, chẳng e lệ và phụ thuộc vào ai.
Tiệc cưới tan trong chiều trung du chạng vạng.
Chúng tôi lầm lũi đạp xe men theo triền dốc ngựơc trở ra, trực chỉ hướng thị xã
Vĩnh yên.
Bịn rịn chia tay nhau ở chân Dốc Láp, các em
nhìn tôi với ánh mắt như có lỗi. Cô bạn
tôi ỏn ẻn:
- Thôi anh về đi kẻo muộn!
Và dúi vội cho tôi một gói lá chuối to thịt và
xôi. Xuống tới chân dốc, ôm khư khư bọc xôi thịt trong tay, tôi quay đầu nhìn
lại vẫn thấy bốn cái bóng bạn tôi mờ mờ trong màn sương giăng. Rồi bóng tối ập
xuống rất nhanh, trong khoảnh khắc tôi không còn nhìn thấy gì nữa.
Sau này nghe các cụ nói “Trai chưa vợ, gái
chưa chồng, người ta kiêng không đi dự đám cưới “chạy”. Ai lỡ vô phúc đi dự thì
đường tình duyên sau này sẽ gặp “trắc trở”…”. Có nhẽ thế chăng?
TPHCM,
2007.
1 nhận xét:
hay!
Đăng nhận xét