Thứ Năm, 18 tháng 12, 2014

Vị tướng hồi hương với một tấn tài liệu về vũ khí (KQ)

Năm 1946, nhân dịp Bác Hồ sang Pháp dự Hội nghị Fontainebleau về nước, Tướng Trần Đại Nghĩa (khi đó có tên gọi là Phạm Quang Lễ) đã theo Bác về nước. Hành trang hồi hương của ông là hơn 1 tấn tài liệu về vũ khí mà ông sưu tập được trong hơn chục năm làm việc tại Pháp.

Từ Paris hoa lệ theo Bác hồi hương

Thiếu tướng - Giáo sư - Viện sỹ Trần Đại NghĩaThiếu tướng - Giáo sư - Viện sỹ Trần Đại NghĩaHè năm 1946, Phạm Quang Lễ cùng đông đảo bà con Việt kiều ở Paris ra sân bay Le Bourget đón Cụ Hồ sang thăm theo lời mời của Chính phủ Pháp. Nghe tên Nguyễn Ái Quốc đã lâu nhưng nay được thấy “một cụ già hơi gầy, có bộ râu đen và thưa, trang phục giản dị với bộ ka-ki màu vàng nhạt, trên ngực không đeo huân chương. Đặc điểm hấp dẫn nhất với tôi là Người có đôi mắt sáng, vầng trán rộng, cử chỉ nhanh nhẹn, hoạt bát, luôn chủ động” - ông Lễ ghi lại trong hồi kí của mình khi vào tuổi 80.

Thời gian này, phái đoàn Chính phủ ta do ông Phạm Văn Đồng là trưởng đoàn cùng các ông Tạ Quang Bửu, Phan Anh... tham gia Hội nghị Fontainebleau với Chính phủ Pháp. Chỉ là khách mời danh dự nhưng Bác thường xuyên gặp gỡ, trao đổi với đoàn.




Cũng dịp này, ông chủ tịch Hội Việt kiều ở Paris đã giới thiệu một số trí thức yêu nước với Bác. Vậy là ông Lễ được gặp và trò chuyện với Người, thậm chí được tháp tùng Bác đi thăm một số nơi ở nội, ngoại thành Paris. Nhân cách, đức độ của Người đã thu phục ông.

Cuộc đàm phán ở Hội nghị bị phía Pháp cố tình kéo dài. Ngày 10/9/1946, Bác cho gọi ông Lễ tới thông báo: “Hội nghị Fontainebleau không thành công, Bác sắp về nước. Chú chuẩn bị, vài ngày nữa, chúng ta lên đường. Chú đã sẵn sàng chưa?”. “Thưa Bác, cháu đã sẵn sàng về nước”, ông Lễ trả lời.

Lúc đó, ông đang làm việc tại xưởng sản xuất máy bay, chỉ cần viết đơn xin nghỉ việc. Hơn chục năm học và làm việc tại Pháp (1935-46), ông âm thầm say mê nghiên cứu chế tạo vũ khí. Bằng quan hệ và khả năng của mình, ông bí mật gom góp hơn 3 vạn trang tài liệu về vũ khí và công nghệ. Hơn 1 tấn tài liệu được đóng gói, dán nhãn “ngoại giao” theo ông về nước.

Chuyến hải trình căng thẳng

Tháp tùng Bác trên Thông báo hạm quân sự Dumont d’Urville theo đường biển về nước còn có ông Đỗ Đình Thiện (Thư kí của Bác), Đại tá cận vệ Vũ Đình Huỳnh cùng 4 Việt kiều (Kỹ sư đúc - luyện kim Võ Quý Huân, Bác sĩ Trần Hữu Tước, Kỹ sư mỏ Võ Đình Quỳnh và ông Lễ).

Ngày 19/9/1946, tầu rời cảng Toulon. Sau Hội nghị Fontainebleau, quan hệ Việt - Pháp trở nên rất căng thẳng, ai cũng lo chuyến đi lênh đênh trên biển dài ngày, lỡ ở nhà xảy ra chiến tranh thì cả đoàn rơi vào cảnh “cá chậu, chim lồng”. Nhưng riêng Bác vẫn tỏ ra bình thản. Người bàn bạc với các thành viên thống nhất cách thức sinh hoạt, nghỉ ngơi, đọc sách báo, giữ nếp sống trật tự cho chuyến đi.

Khi tàu vào Địa Trung Hải, phía Pháp cho 150 binh lính, sĩ quan trên tầu “tập trận”. Còi báo động rú lên, sàn tầu rung chuyển rồi súng pháo nổ ầm ỹ, khói đạn mù trời... Phía Pháp có ý uy hiếp đoàn. Nhưng Bác vẫn tỉnh táo chỉ đạo giữ thái độ như không có gì xảy ra. Từ thế mạnh áp đảo, nhưng do ta khéo léo trong ứng xử giao tiếp làm họ phải thay đổi thái độ. Cũng có tập trận lần 2 cho phải phép rồi thôi.

Theo đề nghị của Bác, Thông báo hạm dừng tại 4 điểm: Kênh đào Suez, Ceyland (nam Ấn Độ), Nha Trang và ngoài khơi Hải Phòng. Tại đó, chỉ Bác cùng thư kí và cận vệ lên bờ.

Chuyến đi dài ngày là dịp may hiếm có được sống gần Bác, một môi trường thuận lợi để Kĩ sư Phạm Quang Lễ chuẩn bị đầy đủ kiến thức, kinh nghiệm trước khi bước vào cuộc đời mới. Gần 3 tháng gần Người, ông Lễ như được qua 1 lớp huấn luyện mà nội dung rất sinh động, được đúc kết từ tinh hoa, truyền thống dân tộc, từ các đạo lí, cả của phương Đông và phương Tây, 1 phương pháp luận khoa học...

Ngày 20/10/1946, tầu cập Cảng Hải Phòng. Ra đón tiếp đoàn cùng nhân dân Hải Phòng và đại diện Pháp còn có mặt ông Phạm Văn Đồng (rời Paris sau nhưng về bằng máy bay), ông Võ Nguyên Giáp...

Vị Tổng tư lệnh xúc động ôm ông Lễ trong vòng tay, nói: “Ở nhà nghe tin anh về với Bác mừng lắm!”. Còn ông thì cảm động: “Cảm ơn anh! Tôi mới về nước, chưa làm được gì. Các anh ở nhà chắc vất vả lắm?”.

Được Bác đặt tên là Trần Đại Nghĩa

Vừa về tới Hà Nội, ông được Thứ trưởng Quốc phòng Tạ Quang Bửu đón ngay lên Thái Nguyên thử đạn Bazooka của cánh tình báo Mỹ tặng Bác. (Bazooka lúc đó là vũ khí mới, quân đội Mỹ vừa dùng khi đổ bộ lên Normandi (Pháp) đầu năm 1944).

Khi trở về, Bác gọi ông đến giao nhiệm vụ Cục trưởng Cục Quân giới: “Kháng chiến rất cần bí mật các công xưởng. Chú cũng cần có tên bí mật với kẻ thù và giữ an toàn cho gia đình, họ hàng chú ở trong Nam”. (Quê ông ở tỉnh Vĩnh Long, Nam Bộ). Kĩ sư Phạm Quang Lễ xin Bác đặt tên cho. Bác vui vẻ nói: “Phục vụ nhân dân là nghĩa lớn. Vậy Bác đặt bí danh cho chú là Trần Đại Nghĩa!”. Cái tên đó đã gắn với ông suốt cả cuộc đời.

Ngay sau ngày Toàn quốc kháng chiến 19/12/1946, sắt thép vụn, đường ray xe lửa được chuyển về các xưởng quân giới, chế tạo những khẩu Bazooka.

Ngay sau Tết Đinh Hợi, sáng 5/3/1947, khi cánh quân Pháp từ thị xã Hà Đông có xe tăng yểm trợ tấn công ra vùng chùa Trầm. Đang lừ tiến, huơ nòng pháo bắn đì đòm thị uy thì “oành! oành”, 2 quầng lửa bất ngờ trùm lên 2 chiếc đi đầu. Rồi đạn trong xe nổ dữ dội. Cuộc hành quân tấn công Chương Mỹ, Quốc Oai bị dừng lại. Giặc Pháp phải hốt hoảng lui quân.

Không chỉ xe tăng, mà tất cả cả lô cốt, ụ xạ kích, các nhà cửa kiên cố cũng bị đạn Bazooka xuyên thủng, lính trong căn cứ cháy thành than... gây bao nỗi kinh hoàng.

Đặc biệt, hàng chục tầu chiến Pháp bị bộ đội ta bắn chìm trên sông Lô (trong Chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947), bẻ gãy “1 gọng kìm” của cuộc tấn công lên Căn cứ địa cách mạng.

Với chiến công này của bộ đội, đầu năm 1948, Hồ Chủ tịch đã kí quyết định phong quân hàm cấp tướng cho 11 cán bộ cao cấp. Trong số đó, ông Trần Đại Nghĩa nhận hàm thiếu tướng.

Chế tạo thành công súng SKZ

Trong những năm tháng gian khổ ấy, ta chưa có đạn Ca-chiu-sa, ông Nghĩa luôn mơ ước làm sao chế tạo cho được loại súng mà bộ đội ta có thể vác vai nhưng có sức công phá ngang cỗ đại bác nặng 6 tấn. Ông đã cùng các kĩ sư Hoàng Đình Phu, Bùi Minh Tiêu, Nguyễn Trinh Tiếp, Phạm Đồng Điện, Nguyễn Văn Hường... nghiên cứu loại vũ khí tương đương của Mỹ dùng tấn công lên đảo Okinawa (Nhật Bản).

Thế rồi, SKZ (viết tắt “súng không giật”) của Việt Nam ra đời. Đầu năm 1950, trong Chiến dịch Lê Hồng Phong, ngay trận đầu Phố Lu, bộ đội ta đã dùng SKZ phá tan các lô cốt có tường bê tông dày hơn 1m. Tiếp sau đó là công trình nghiên cứu đạn bay. Và, cứ thế, cứ thế...

Tại Đại hội Anh hùng CSTĐ năm 1952, ông là trí thức Việt Nam đầu tiên được tặng danh hiệu AHLĐ. Những năm sau này, Nhà nước phong tặng ông Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1 cho Cụm các công trình nghiên cứu và chỉ đạo kĩ thuật chế tạo vũ khí trong thời kì chống Pháp.

Trần Đại Nghĩa tên thật là Phạm Quang Lễ, sinh năm 1913 trong một gia đình nhà giáo. Giữa 1933, thi đỗ đầu hai bằng tú tài: Việt và Tây. Nhưng vì nhà nghèo, không có tiền đi Hà Nội học, ông đi làm giúp mẹ, chờ thời cơ.
Năm 1935, đi du học Pháp. Tốt nghiệp kỹ sư và cử nhân các trường: Bách khoa Paris, Mỏ, Điện, Sorbonne, Cầu đường. Sau đó ở lại làm việc tại Viện Nghiên cứu máy bay. Năm 1942, sang Đức làm việc trong xưởng chế tạo máy bay và Viện Nghiên cứu vũ khí.
Từng giữ chức vụ: Cục trưởng Cục Pháo binh, Phó chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, Phó chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật, Chủ nhiệm Ủy ban Kiến thiết Cơ bản, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật, Viện trưởng Viện Khoa học Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Công thương, Chủ tịch đầu tiên Liên hiệp các Hội Khoa học và Kĩ thuật Việt Nam, Hiệu trưởng đầu tiên Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại biểu Quốc hội khoá II, III. Năm 1966, ông được bầu làm Viện sỹ nước ngoài của Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô.
Được trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh và danh hiệu Anh hùng lao động. Ông mất vào 16 giờ 20 phút ngày 9/8/1997, hưởng thọ 85 tuổi.

Trần Kiến Quốc - bee.net.vn

6 nhận xét:

Quang Vinh nói...

Nhiều lúc tôi tự hỏi tại sao những trí thức vĩ đại nhất, những "trí thức XHCN" nhất laị không phải do "nhà trường XHCN" đaò tạo. Từ những trí thức thế hệ tiền bối cách mạng như Trần Đại Nghĩa, Lượng Đinh Của, Đặng Văn Ngữ... đến những trí thức thế hệ sau như Võ Tòng Xuân, Nguyễn Thj Ngọc Phương...lại đều do nhà trường "đế quốc thực dân" đào tạo. Có lẽ ta phải xem lại toàn bộ hệ thống giáo dục đào tạo của ta, nhất là khâu DẠY LÀM NGƯỜI. Ngày trước các nhân tài chịu hy sinh, chịu mất tất cả quay về quê hương lo cho dân cho nước. Còn ngày nay người có chút tài thì tìm ra nước ngoài để để được tất cả, ấm thân phì gia.

TranKienQuoc nói...

Không nên trách con người ta mà phải trách người lãnh đạo.
Về giáo dục thì rõ ràng được xếp theo thứ tự:
1- Thời Pháp.
2- Thời XHCN.
3- Thời nay.

Nặc danh nói...

Có câu: Ở nhà nhất mẹ nhì con, Ra đường lắm kẻ còn giòn hơn ta...."
Dưới thời tuyên truyền của CS thì VN cái gì cũng "nhất", "dân chủ ở ta gấp vạn dân chủ tư sản".....Vì thế bất kỳ ai ra nước ngoài mới nhận ra rằng đó mới là sông, mới là biển còn ở nhà là vũng trâu đằm. Các cháu sang đó thì ngại về quê cha đất tổ. Thêm nữa các con cháu ông lớn và nhà giầu đều sang nước ngoài sống cả thì dại gì về VN cho khổ.... Thế đấy các bác ạ! Các nước tư bản dạy con người sống có nhân phẩm thực sự còn ta dạy đạo đức "giả vờ" ấy mà. Cụ Nghĩa Cụ Bửu có rơi vào thời nay thì cụ cũng "kiếu"!

Quang Vinh nói...

Chẳng lẽ những người đức độ tài năng đều quay lưng với quê hương đất nước hết sao? Tôi không dám kêu gọi ai hy sinh vì dân vì nước, vì hy sinh là việc của mỗi người, không ai thay được. Còn nói cụ Nghĩa cụ Bửu có rơi vào thời nay thì cũng xin kiếu, vậy phải hiểu như thế nào về BS Nguyễn thị Ngọc Phượng, GS Võ Tòng Xuân... Chỉ có điều tôi thấy phải thay đổi trong giáo dục con người là đừng nói trung với Đảng mà phải nói là trung với nước, cũng đừng ghép yêu nước với yêu CNXH vì người ta có thể không yêu CNXH nhưng vẫn yêu nước. Bà Thái hậu Dương Vân Nga không bảo vệ quyền lợi cho dòng tộc Đinh nhưng góp phần bảo vệ được giang sơn nước Đại Cồ Việt. Tôi không phê phán ai nếu họ nói họ không yêu CNXH, không trung với đảng, không yêu giai cấp công nông. Nhưng tôi không thể coi bất cứ ai là người tốt nếu họ không trung với đất nước họ, không yêu dân tộc của họ, không có lòng nhân ái với con người. Có lẽ điều này đúng với mọi dân tộc, mọi thể chế chính trị trên thế giới này.

TranKienQuoc nói...

Nhất trí, hãy dạy con cháu ta trung với nước, hiếu với dân - như Cụ Hồ đã từng trao 6 chữ này cho trường đào tạo cán bộ đầu tiên của nước VN mới.
Mất nước thì chả còn đảng, mất dân thì cũng chả còn đảng.

Nặc danh nói...

Đã phát hiện gian lận thì phải dập bài chơi lại từ đầu