Thứ Hai, 7 tháng 5, 2012

Bức ảnh lịch sử


Kỷ niệm Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ
7-5-1954 – 7-5-2012

VỀ NHỮNG NGƯỜI TRONG BỨC ẢNH LỊCH SỬ
CÁCH ĐÂY NỬA THẾ KỶ

Trong dịp đến thăm lão đồng chí Lê Trọng Nghĩa, nhân chứng trong Chiến dịch Điện Biên Phủ (ĐBP) lịch sử, tôi được cho xem nhiều tư liệu quý giá. Trong đó có bức ảnh ông cắt ra từ báo, giấy đã cũ nhưng còn rõ nét chữ chú thích: “Đại tướng Võ Nguyên Giáp và các sĩ quan cao cấp đang thông qua phương án tác chiến trong Sở chỉ huy mặt trận tại bản Nà Táu”… Theo phương án “đánh nhanh, thắng nhanh” thì chỉ còn vài ngày nữa là tới “ngày N”[1].

Pháo binh ta đang chiếm lĩnh trận địa. Hơn 2.000 trái pháo đã săn sàng giáng xuống đầu địch.

Trong ảnh, các sĩ quan đang vây quanh bàn lớn đặt giữa hầm, mặt bàn trải tấm bản đồ chiến dịch. Đại tướng (người mặc áo đại cán màu đen) đưa tay chỉ vào các cứ điểm. Đứng chếch bên tay phải Đại tướng là Cục phó Cục Bảo vệ Phạm Kiệt, vốn là Chỉ huy trưởng Đội du kích Ba Tơ. Sinh năm 1912 tại Quảng Ngãi; năm 1945, ông tham gia Khởi nghĩa Ba Tơ; năm 1946, là Đại đoàn trưởng Đại đoàn 31 (Khu V) và năm 1953 tham gia Chiến dịch ĐBP. Trong cuốn “ĐBP điểm hẹn lịch sử”, Đại tướng đánh giá cao vai trò Cục Bảo vệ, đặc biệt là đồng chí Phạm Kiệt, người sớm phát hiện ra việc bố trí pháo binh trên trận địa quá trống trải, không an toàn, tránh được tổn thất to lớn cho bộ đội. Năm 1958, ông được phong Thiếu tướng và năm 1961 là Tư lệnh kiêm Chính uỷ Công an vũ trang (nay là Bộ đội Biên phòng). Năm 1975, ông mất tại Hà Nội, thọ 63 tuổi.


Người đứng sau lưng ông Phạm Kiệt là Cục trưởng Cục Tác chiến Trần Văn Quang. Sinh năm 1917 và tham gia cách mạng từ 1935; năm 1938, ông là Thành uỷ viên Sài Gòn-Chợ Lớn; năm 1945, tham gia lãnh đạo khởi nghĩa ở Nghệ An; sau đó lần lượt là Chính uỷ Khu IV, Chỉ huy trưởng kiêm Chính uỷ Phân khu Bình-Trị-Thiên và là Chính uỷ đầu tiên của Đại đoàn 304. Năm 1959 ông là Phó tổng tham mưu trưởng. Sau 1975 là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng và ông được phong Thượng tướng năm 1984. Năm 1992, ông  được tín nhiệm  bầu là Chủ tịch Hội Cựu chiến binh VN, nay nghỉ hưu tại Hà Nội.

Sát bên trái Võ Tổng là Chủ nhiệm Chính trị mặt trận Lê Liêm. Ông sinh năm 1922 và là Xứ uỷ viên Bắc kỳ, lãnh đạo khởi nghĩa ở Hưng Yên. Tháng 8-1948, ông nhận nhiệm vụ Cục trưởng Cục Dân quân, tháng 10-1949 thay tướng Văn Tiến Dũng làm Cục trưởng Cục Chính trị. Trong chiến dịch Biên giới, Tây Bắc… ông luôn có mặt với tư cách Chủ nhiệm Chính trị  mặt trận. Trong Chiến dịch ĐBP, ông là Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, tham gia Bộ chỉ huy mặt trận. Đến năm 1958, ông chuyển ra làm Thứ trưởng kiêm Bí thư Đảng-đoàn Bộ Văn hoá. Tại Đại hội Đảng III, ông được bầu là Uỷ viên dự khuyết BCHTƯ. Ông  là người trực tiếp điều hành xây dựng Trường Nhạc Hà Nội vào cuối thập kỷ 1950. Ông đam mê âm nhạc, có thể ngồi hàng tiếng đồng hồ trước pianô chơi những bản nhạc cổ điển của Mozart, Beethovel, Traicốpxky… Hiếm có một vị thứ trưởng nào lại mê tranh như ông, mời cả họa sĩ về nhà vẽ những bức sơn dầu khổ lớn. Năm 1985, ông mất tại Hà Nội thọ 63 tuổi.

Người kề bên là Cục trưởng Lê Trọng Nghĩa, vốn hoạt động trong phong trào học sinh Bonnal Hải Phòng cùng với Nhạc sĩ Văn Cao, Nhà văn Nguyễn Đình Thi… Năm 1942, ông lên Hà Nội hoạt động trong tổ chức Thanh niên Cứu quốc, bị bắt khi rải truyền đơn kỷ niệm thành lập Đảng rồi bị kết án và giam ở Hỏa Lò. Tháng 3-1945, ông nhận nhiệm vụ bảo vệ “tử tù” Trần Đăng Ninh vượt ngục trở về với cách mạng. Trong Tổng khởi nghĩa 1945, ông là một trong 5 uỷ viên Uỷ ban Quân sự cách mạng Hà Nội. Ngày 19-8-1945, khi cách mạng đã cơ bản làm chủ Hà Nội nhưng quân đội Nhật vẫn còn hàng vạn quân cùng nhiều vũ khí. Tối hôm đó, dưới sự chỉ đạo của 2 Xứ uỷ viên Nguyễn Khang và Trần Tử Bình, Lê Trọng Nghĩa cùng cố vấn Trần Đình Long trực tiếp vào Tổng hành dinh Nhật điều đình với viên chỉ huy. Chúng đã chấp nhận không đụng độ vũ trang, tránh được tổn thất. Năm 1946, ông là đại biểu Quốc hội khóa I, đến năm 1950, được giao nhiệm vụ Cục trưởng Cục Quân báo. Cục đã cung cấp nhiều thông tin chính xác về địch để Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp đưa ra phương án tác chiến đúng đắn. Năm 1958, ông được phong hàm Đại tá, nay nghỉ hưu tại TPHCM. Cùng Đại tướng Nguyễn Quyết, ông là một trong 2 uỷ  viên Uỷ ban khởi nghĩa Hà Nội còn sống đến ngày hôm nay.

Thiếu tướng Lê Thiết Hùng ngồi sát bìa phải. Ông sinh năm 1908 và là một trong những thanh niên được Cụ Hồ gửi sang Trung Quốc học Trường Quân sự Hoàng Phố cùng Lê Hồng Phong, Nguyễn Sơn, Phùng Chí Kiên, Trương Văn Lĩnh… năm 1926. Những năm 1940-45, ông hoạt động ở Chiến khu Cao-Bắc-Lạng, rồi lãnh đạo khởi nghĩa ở Lạng Sơn. Đầu năm 1948, ông là một trong 9 cán bộ cao cấp được Hồ Chủ tịch kí sắc lệnh phong hàm Thiếu tướng và thời gian 1950-54 là Hiệu trưởng Trường Lục quân VN. Đầu năm 1954, trên cương vị Tổng thanh tra quân đội, ông có mặt thực hiện thanh tra mặt trận chuẩn bị  cho Chiến dịch ĐBP. Hoà bình lập lại ông về Bộ Tư lệnh Pháo binh rồi chuyển sang công tác ngoại giao: Đại sứ tại Triều Tiên và Phó trưởng Ban Đối ngoại Trung ương. Thiếu tướng Lê Thiết Hùng mất năm 1986, tại Hà Nội, thọ 78 tuổi.

Người ngồi đầu bàn phía tay phải Đại tướng là ông Hoàng Xuân Tuỳ. Sinh năm 1922 tại Thừa Thiên-Huế; năm 1941, ông ra Hà Nội học Cao đẳng Công chính, được giác ngộ cách mạng và tham gia Tổng khởi nghĩa. Tháng 10-1945, ông được cử đi học Trường Quân chính VN, sau đó được giữ làm cán bộ khung và được Bí thư chi bộ Trần Tử Bình giới thiệu kết nạp Đảng. Năm 1950 là Chủ nhiệm Chính tri Sư đoàn 308 và cuối năm 1951 được điều về Tổng cục Chính trị làm Báo QĐND. Tháng 11-1953, ông được điều làm Trưởng ban Tuyên huấn kiêm phụ trách Báo QĐND tại mặt trận ĐBP. Trong hội nghị, ông có mặt để nắm thông tin kịp đưa lên mặt báo, tuyên truyền động viên bộ đội bước vào chiến dịch.

Có một kỉ niệm vui, đúng ngày 29 Tết Quý Tỵ (2-2-1954) “đám cưới nhà binh” giữa Nhà báo Hoàng Xuân Tùy và diễn viên Song Ninh được tổ chức ngay tại mặt trận. Hoa trang trí đám cưới là hoa rừng, tiệc cưới đơn sơ chỉ với những điếu thuốc và ấm trà nhưng nồng ấm, khách đến chia vui xanh rì màu áo lính. Chủ nhiệm Chính trị Lê Liêm đứng ra làm chủ hôn. Võ Tổng biết tin đã sang dự mừng hạnh phúc. Năm 1956, Hoàng Xuân Tùy được điều ra làm Hiệu phó, rồi Hiệu trưởng Đại học Bách khoa Hà Nội. Từ 1965-89 liên tục là Thứ trưởng Bộ Đại học đến năm 1990 thì ông nghỉ hưu tại TPHCM.  

Đại tá Lê Trọng Nghĩa nhớ lại: “Theo tin quân báo, đêm 19 và 20-1-1954, quân Pháp đã phát lệnh mở chiến dịch Atlande đánh vào Tuy Hòa (vùng tự do Khu V Trung bộ). Sau khi hội ý, Đại tướng yêu cầu toàn bộ Sở chỉ huy1 tiếp tục ra mặt trận thị sát. Trưởng Ban Tác chiến Đỗ Đức Kiên và Cục phó Cục 2 Quân báo Cao Pha cùng Tổng tham mưu phó Hoàng Văn Thái lập tức lên đường. Những ngày này với Đại tướng là những ngày căng  thẳng nhất. Và với những suy luận khoa học kết hợp với những thông tin chính xác từ mặt trận báo về, Tổng tư lệnh đã ra quyết sách chiến lược: chuyển từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”. Vì vậy đây là cuộc họp khó quên với những sĩ quan tuỳ tùng của ông trong Chiến dịch ĐBP lịch sử”.

Khi chia tay, ông Nghĩa tâm sự: “Mới đây tôi có gặp lại anh Hoàng Xuân Tuỳ. Bạn bè cũ gặp nhau mừng lắm. Thật tiếc, người ngồi giữa Đại tướng và anh Hoàng Xuân Tùy không xác định được chính xác… Thế mà đã hơn 50 năm! Đại tướng Võ Nguyên Giáp năm nay đã qua tuổi 95 nhưng vẫn minh mẫn và xứng đáng với cái tên mà cán bộ, chiến sĩ ta đã gọi Người anh cả của lực lượng vũ trang. Trong tấm ảnh, người còn người mất nhưng các đồng chí luôn là những chiến sĩ trung kiên trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và cả thời kì xây dựng quân đội lên chính quy hiện đại…”.

TPHCM, xuân 2007







[1] “Ngày N” theo phương án “đánh nhanh, thắng nhanh” là 25-1-1954.
1 Bộ chỉ huy và Đảng uỷ mặt trận gồm Đại tướng Võ Nguyên Giáp và các đ/c Hoàng Văn Thái, Lê Liêm, Đặng Kim Giang.

1 nhận xét:

Nặc danh nói...

Toàn phụ huynh của Trỗi: Bác Văn (VHBình, VHPhúc, VĐBiên), bác Lê Liêm (Trịnh Thành Công, Hồng Hà, Hồng Anh), chú Nghĩa (Trọng Huấn, Trọng Thắng), bác Phạm Kiệt (Phi, Vân, Võ Hùng)...