Thứ Sáu, 18 tháng 4, 2014

Tìm hiểu nguyên nhân cuộc chiến Việt Nam kết thúc năm 1975 dưới góc độ Kinh tế? (Theo Kiến thức)


       Nếu không có sự kiện 30/4 thì sớm muộn quân đội Sài Gòn cũng chỉ có nước giải tán vì hết tiền, một phụ tá của Thiệu viết trong hồi ký.

1- Quân đội Sài Gòn cạn tiền hết đạn.
       Trong hồi ký Đại thắng mùa xuân, Đại tướng Văn Tiến Dũng cho biết: Vào cuối năm 1974, ta biết được sức chiến đấu của quân đội Sài Gòn suy giảm nghiêm trọng vì thiếu xăng dầu, đạn dược. Chính điều đó đưa đến quyết tâm lập kế hoạch mở chiến dịch của ta. Tuy nhiên, phía ta không biết rằng, vào thời điểm đó, tình hình chính quyền và quân đội Sài Gòn còn bi đát hơn nhiều.
Chiến thắng Buôn Mê Thuột.


        Từ khi được dựng lên, chính quyền Sài Gòn dựa hoàn toàn vào viện trợ kinh tế. Viện trợ là nguồn tài chính chủ yếu của mọi hoạt động từ quân sự tới xã hội. Nhưng từ sau Hiệp định Paris và nhất là từ năm 1974, nền kinh tế Sài Gòn rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng do viện trợ bị cắt giảm nhanh chóng. Theo những thông tin mật của hồ sơ Dinh Độc lập được trích dẫn trong cuốn: “Khi đồng minh tháo chạy” của tác giả Nguyễn Tiến Hưng, viện trợ quân sự của chính quyền Sài Gòn cho tài khóa 1974-1975, được Tổng thống Hoa kỳ Nixon ấn định một Tỷ dolar. Tuy nhiên, khi đưa ra Quốc hội Mỹ, nó bị cắt giảm chỉ còn 700 triệu.


        Tình hình viện trợ kinh tế cũng không sáng sủa hơn. Ông Hưng viết: “Vào đầu năm 1974, có tin dồn dập là Quốc hội Hoa kỳ sẽ đi tới việc cấm cả dùng viện trợ để tài trợ ngân sách Quốc phòng. Vài tháng sau thì tin đồn thành sự thực. Trước kia, 75% sự thiếu hụt ngân sách là do tài trợ bằng tiền của Quỹ đối giá (Counterpart Fund). Quỹ đối giá là một ngân khoản thu được khi tiền Viện Trợ Nhập Cảng (CIP) được đổi ra bạc Việt Nam. Thí dụ, một thương gia muốn nhập cảng bông gòn phải đem tiền Việt Nam đến ngân hàng xin mua Mỹ kim mở tín dụng thư. Số tiền này được đưa vào Quỹ đối giá. Đến nay, không những viện trợ đã bị giảm, mà Quỹ đối giá lại không còn được dùng để chi tiêu cho quốc phòng nữa”.
Trên đường rút chạy khỏi Cao nguyên.

Tiến về SG.

Huế, Xuân 1975.


       Sau tin sét đánh này, Quốc hội Mỹ dưới áp lực của phe phản chiến đi thêm một bước nữa, bắt đầu từ 31/12/1974 sẽ cấm cả việc dùng Quỹ đối giá để trả lương cho lực lượng cảnh sát. Lúc đó, cảnh sát chính quyền Sài Gòn có 120.000 người. Chỉ một tháng lương của lực lượng này cũng là một món tiền không nhỏ. 
Những nhân tố kinh tế này đã tác động rất lớn vào tinh thần của quân đội và chính quyền Sài Gòn ở cấp cao nhất. Nhiều năm sau nhìn lại, ông Nguyễn Tiến Hưng vẫn không tìm ra giải pháp nào cho tình hình lúc đó. Ông nói: “Nhìn vào viễn ảnh kinh tế, tài chính và quân sự Miền Nam cuối năm 1974 như nhìn vào chân trời tím. Những đám mây đen đặc đang ùn ùn kéo tới báo hiệu cho một cơn bão tố từ xa xa. Và như vậy, ta có thể đặt thêm một câu hỏi khác: từ năm 1976 Việt Nam Cộng hoà sẽ lấy tiền đâu trả lương cho quân đội và cảnh sát? Sau 30 năm, tôi cũng chưa tìm ra được câu trả lời. Khi không còn tiền trả lương, chắc chỉ còn một giải pháp là giải ngũ? Trên thực tế, năm 1974 đã là năm quyết định số mệnh cho Miền Nam Việt Nam rồi vậy”.

        Cùng lúc đó, dự trữ đạn dược, xăng dầu và vật tư quân sự nói chung của quân đội Sài Gòn cũng khan hiếm nghiêm trọng. Theo dự tính của Bộ Tổng tham mưu chế độ Sài Gòn: dự trữ đạn dược tồn kho chỉ còn cung ứng được từ 30 tới 45 ngày. Tướng Cao Văn Viên kết luận rằng: “Nếu tình hình chiến sự cứ tiếp tục xảy ra theo cùng một nhịp độ thì số đạn tồn kho sẽ hết vào tháng Sáu 1975, nếu không nhận được thêm viện trợ”. Với tình hình đó, tác giả cuốn “Khi đồng minh tháo chạy” kết luận: “Như vậy, ta có thể đặt câu hỏi quan trọng về phương diện lịch sử, là: nếu như không có biến cố 30-4-1975 thì tới tháng Sáu, cho già lắm là tháng Tám hay tháng Chín, quân lực Việt Nam Cộng hoà sẽ lấy gì mà chiến đấu?” 

2- Bí mật trong quyết định từ bỏ cao nguyên của Nguyễn Văn Thiệu
.

        Từ trước đến nay, các nhà chiến lược khi xem xét cuộc Tổng tiến công nổi dậy năm 1975 của Quân đội cách mạng đều khẳng định rằng chính quyết định vội vã rút khỏi Tây Nguyên của Tổng thống Thiệu là nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ nhanh chóng của quân đội Sài Gòn. Vậy đâu là lý do khiến ông Thiệu đưa ra quyết định “vội vàng” này?  Thực tế, quyết định của ông Thiệu có cơ sở và được nghiên cứu từ trước chứ không phải hồ đồ như nhiều người vẫn phê phán.

Giải phóng SG, 11g30 ngày 30/4/1975.
        Nguyễn Tiến Hưng kể rằng, vào khoảng cuối năm 1974, ông đã được Tổng thống Thiệu cho xem một báo cáo về khả năng chiến đấu của quân đội Sài Gòn do Bộ Tổng Tham mưu trình lên. Phần kết luận của báo cáo này viết: Nếu mức độ quân viện là 1,4 tỷ thì có thể giữ được tất cả những khu đông dân cư của cả bốn Vùng Chiến Thuật; nếu là 1,1 tỷ thì Quân khu 1 phải bỏ; nếu là 900 triệu thì khó lòng giữ được QK I và II, hoặc khó đương đầu với cuộc tổng tấn công của Bắc Việt; nếu là 750 triệu thì chỉ có thể phòng thủ vài khu vực chọn lọc, và khó điều đình được với Bắc Việt; nếu quân viện dưới 600 triệu thì Chính phủ VNCH chỉ còn giữ được Sài gòn và vùng châu thổ sông Cửu Long.

        Trên thực tế, đến tháng 8/1974, Quốc hội Mỹ duyệt viện trợ quân sự cho Sài Gòn chỉ có 700 triệu. Cứ theo báo cáo thì quân đội Sài Gòn chỉ có thể phòng thủ vài khu vực chọn lọc và phải bỏ quân khu I, II. Niềm hy vọng cuối cùng của ông Thiệu về khoản 300 triệu mà ông xin Mỹ viện trợ gấp sau khi mất Phước Long cũng tan thành mây khói. Quốc hội Mỹ đầu năm 1975 quyết định không cho Sài Gòn thêm nữa dù một đồng. Chính bởi những yếu tố đó nên khi Buôn Ma Thuột mất, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu liền ra lệnh rút khỏi cao nguyên. Ông Thiệu nói: “Chắc chắn chúng ta không thể bảo vệ được tất cả lãnh thổ muốn bảo vệ. Như vậy chúng ta nên tái phối trí lực lượng và bảo vệ những vùng đông dân, trù phú, vì những vùng đất đó mới thực sự quan trọng”. Tuy nhiên, ý định rút quân chiến lược của ông Thiệu không thực hiện được vì các đơn vị rút đi đều bị chặn đánh tơi tả. Ý định tử thủ Đà Nẵng để chặn bước tiến của quân Giải phóng cũng không thành và cuối cùng Sài Gòn được giải phóng ngày 30/4/1975, kết thúc cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc 30 năm.

        Những dữ kiện lịch sử từ nhiều nguồn sau chiến tranh đã giúp ta biết thêm tình hình chính quyền Sài Gòn vào những ngày tháng cuối cùng để hiểu thêm một phần nguyên nhân dẫn đến ngày 30/4/1975. Tuy nhiên, tác giả Nguyễn Tiến Hưng có ý nhấn mạnh viện trợ kinh tế như một lý do quyết định sự thất bại của họ để giảm nhẹ chiến thắng của quân đội cách mạng. Nhưng chính điều đó lại nói rõ hơn cái chiều hướng thất bại tất yếu của họ. Bởi lẽ, một chính quyền, một quân đội không có nội lực mà chỉ trông đợi vào người khác thì sớm muộn sẽ bị đánh bại mà thôi.
  

@@@@@@@@@@



9 nhận xét:

Kháng Chiến nói...

Qua tài liệu này chúng ta những người từng cầm súng mới thấy hết giá trị sự giúp đỡ quốc tế cho chúng ta tiến hành chiến tranh.

Quang Vinh nói...

"Đánh cho Mỹ cút đánh cho ngụy nhào". Mỹ cút thì ngụy phải nhào là chuyện đương nhiên. Nhưng cái chuyện đương nhiên không thể xảy ra nếu không có đại thắng mùa xuân, không có chỉ đạo sáng suốt "thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa", nếu không có tinh thần quyết tâm và anh dũng của quân đội nhân dân ta. Mọi quy luật xã hội đều không tự thân vận động mà phải có tác động của con người. Đừng bao giờ nghĩ có quy luật rồi thì chỉ còn cần há miệng chờ sung. Đừng bao giờ nghĩ đơn giản nếu ta không chiến đấu kẻ địch cũng tự đầu hàng, tự từ bỏ tham vọng. Đừng bao giờ quên công ơn những người đã anh dũng ngã xuống để đất nước có ngày hôm nay: độc lập, thống nhất đất nước. Cái khó nhất cha ông đã làm được, tiêc rằng cháu con vì ham quyền lợi riêng tư mà phản bội ý nguyện của những người đã anh dũng hy sinh vì nước.

Nặc danh nói...

Cứ mỗi lần tháng tư về,nhất là nhưng năm gần đây,lòng tôi lại cuộn trào niền vui lẫn mỗi buồn.Cố thủ tướng Võ Văn Kiệt,thân sinh bạn Võ Dũng,có nói thật tinh tế rằng đây là dịp "triệu người vui mà cũng có triệu người buồn".Vâng,cũng như bao gia đình việt nam ,gia đình và đại gia đính tôi cũcng có người theo phía bên này và phía bên kia ,có nười làm cán bộ cao cấp bên này và tổng trưỡng bên kia,có người đuoc đào tạo bên mỹ bên tây hoặc bên trung quôc liên xô như tôi,có liệt sỷ bên mình và bên nó,bà chị họ tui dưới quê có 4 ngưới con trai chết sạch trong chiến tranh ,dư tiêu chuẩn "bà mẹ việt nam anh hùng" nhưng đau đớn thay 2 LS là VC còn 2LS là "ngụy"....Không đâu như ở nước mình đậu xanh đậu đỏ trộn lẫn nhau,ở TQ-đài loan,đông đức-tây đức,nam hàn-bắc hàn thì đậu xanh ra đậu xanh đậu đỏ ra đậu đỏ,tệ hơn nữa người việt mình lại có cái tật ngáng chân nhau,thành thử cái hố "chia rẽ" hố"hận thù" sao vẫn cứ bộn bề diệu vợi,Hoà Giải sao vẫn cứ nói dễ làm khó,mà không lấp được cái hố oan nghiệt ấy thì làm sao mà " kép lại quá khứ dù 40 năm đã qua để hướng tói tương lai,làm sao mà đất nước thoát khỏi ngày càng đuối hơi tụt hậu.Nỗi buồn tháng tư của tui là thế,nói ra thì như chưa chín,chưa tới,có thể còn bị cười là nói giọng thày chùa cha cố,nhưng không nói thì nhộ t nhạt sao sao ấy,thôi thì cư viết đại ra để ACE chia sẻ,để giọi là dặt vấn đề vậy thôi...

Thắng k5 nói...

Bạn ND cứ đến tháng tư là Vui - Buồn nhột nhạt. Bạn cứ vô tư đi mà khép lại quá khứ như CP ta ấy. Xưa kia thì "Đánh cho Mỹ cút.."
Nay lại mời Mỹ nhào vô, mà nó còn ngó lơ chưa thèm vào cơ. Nói vậy là để biện minh cho cái sự Hòa giải dân tộc của ta là có đấy chứ.
Đôi nơi còn có vài ông lính ngụy vào Đảng CS nữa cơ đấy.

Nặc danh nói...

Các bạn ơi, thế hệ chúng ta sắp qua rồi mà còn phân biệt Bắc Nam mà chi. Là người ở chiến tuyến lúc bắn nhau thực tình tôi cứ tưởng như đánh trận giả hồi nhỏ vậy. Có điều mình không bắn nó nó bắn mình chứ chẳng thấy lòng căm thù đâu cả. Vì phía bên kia cũng là thanh niên như chúng tôi, chả biết nhau chả thù ghét gì nhau, tất cả phải làm theo lệnh cấp trên mà thôi. Dân Việt ta đổ máu quá nhiều, nhưng đến giờ trong LĐ vẫn phân ngôi thứ Bắc-Nam,thật buồn! Dân thời nào chẳng khổ!

TranKienQuoc nói...

Cuộc chiến nào thì cái tế bào cuối cùng của XH là gia đình cũng phải chịu những mất mát lớn nhất. Điều đó đau lắm. Sau chiến tranh thì phải hàn gắn và phải xây dựng đất nước đi lên, sao mà mãi giữ thù hận được? Theo tôi, hòa hợp, hòa giải là đúng nhưng đừng lợi dụng cái đó để tu vén cho chính mình.

Quang Vinh nói...

Có thể nói tuyệt đại đa số người Việt tham gia cuộc chiến giải phóng đất nước vì TINH THẦN DÂN TỘC chứ không vì Ý THỨC HỆ GIAI CẤP. Do đó không có chuyện MB đánh MN, mà chỉ có người VN đánh quân xâm lược. Người VN đánh QUÂN XÂM LƯỢC MỸ, chứ không đánh NHÂN DÂN MỸ. Tôi tin chắc mọi người Việt không ghét một cá nhân ai không làm hại cho đất nước mình, dù họ là người dân tộc nào. Những cưu binh Mỹ đến VN đều được hoan nghênh chào đón. Chuyên Bắc Nam trên chính trường không phải vì họ yêu ai ghét ai theo vùng miền, theo ý thức hệ giai cấp mà chỉ đơn thuần là GÂY BÈ KẾT CÁNH để giành quyền bính, dễ dàng tham nhũng chứ không phải họ đại diện cho người dân từng vùng miền. Dẫu cái bè cánh MN hay MB nắm quyền thì người dân cả 2 miền vẫn thống khổ.

Nặc danh nói...

Cái đáng buồn nhất là tất cả chúng ta đều sống không thật, nói không thật dù nhiều dù ít về vấn đề chính trị, xã hội về sự an bình đất nước. Dân nói không như dân nghĩ, quan cũng biết thừa như dzậy và cũng bắt phải như dzậy.

Nặc danh nói...

Tôi nghĩ đậu xanh đẩu đỏ là khác biệt về tư tưởng chứ không phải vùng miền và dù xanh hay đỏ thì tương lai dân tộc mới quan trọng nhất, lịch sử đã xảy ra rồi có nói gì nghĩ gì thì cũng rứa, ai thắng ai thì cũng rõ rồi, và phải chăng ta nên quân bình, tránh thái quá: đậu đỏ đừng quá tự hào vì 39 năm qua chứng tỏ ta đâu có toàn thắng mà còn thua sút tụt hậu nhiều, đậu xanh cũng chớ quá tự ti bại trận vì thực tế mấy chục năm qua cũng chứng tỏ (lại chứng tỏ, tiên sư chứng tỏ) các song sinh của đậu xanh như đái lloan,hàn quốc, thái llan...đâu có giãy chết mà còn hơn bên thắng trận là chúng ta nhiều, phải chăng nên thấy quân bình hơn rằng đậu đỏ đâu xanh hoà với nhau theo cách nào đó có thể tạo ra một món cao lương mỹ vị tuyệt vời chưa từng có, chứ đừng "cây đđậu nấu củ đậu" cho đau, cho khỗ,cho ngu như thầy Trọng đã dạy trong một bài báo hơn chục năm trước?