Hồi ký "Hồi Ức và Suy Nghĩ" của Trần Quang Cơ
(Nhà báo Trần Quang Thành giới thiệu)
Ảnh bên: Cuộc gặp Thành Đô giữa lãnh đạo Trung-Việt
(3-9-1990).
Hàng trước từ trái sang: Hoàng Bích Sơn, trưởng ban đối ngoại
T.Ư.(1), Phạm Văn Đồng, cố vấn BCHTƯ (3), Nguyễn Văn Linh, tổng bí thư (4),
Giang Trạch Dân (5), Lý Bằng (6), Đỗ Mười (7), Hồng Hà (9)
Bài thứ nhất
LỜI GIỚI THIỆU: Từ đầu năm 2004, giới cán bộ ngoại giao rồi giới trí thức ở Việt Nam đã
chuyền tay nhau tập hồi ký Hồi ức và Suy nghĩ của ông Trần Quang Cơ, nguyên Thứ
trưởng Ngoại giao. Tập hồi ký 82 trang (khổ A4, viết xong lần thứ nhất năm
2001, hoàn thành tháng 5-2003) chưa được
xuất bản công khai. Với nội dung phong phú, chính xác và trung thực, tác giả
cung cấp những thông tin quý hiếm về những vấn đề Việt Nam đương đại.
Tác giả làm việc ở Bộ ngoại giao từ năm 1954. Năm 1968 ông
tham gia Hội nghị Paris (1968-1973), cuộc đàm phán về bình thường hoá quan hệ với
Mỹ (1975-1978) và các cuộc thương lượng giải quyết vấn đề Campuchia (thập niên
80-90 thé ký 20). Năm 1991, được đề nghị làm Bộ trưởng Ngoại giao thay thế ông
Nguyễn Cơ Thạch, ông viện lý do “sức khoẻ” để từ chối. Cuối năm 1993, ông xin
rút khỏi Ban chấp hành Trung ương Đảng.
Những tư liệu dưới đây trích
trong cuốn hồi ký Hồi ức và Suy nghĩ của ông Trần Quang Cơ là những
thông tin rất quan trọng nói lên sự thật
về quan hệ đối ngoại của Việt Nam trong một giai đoạn khó khăn, đồng thời về những
bất đồng trong nội bộ lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong lịch sử ngoại giao Việt Nam kể từ sau sự kiện ngày
30-04-1975 đến hôm nay, sự kiện hội nghị bí mật Thành Đô tháng 9-1990 giữa hai
đoàn đại biểu cấp cao hai nước Việt – Trung để bình thường hóa quan hệ là một
thất bại nhục nhã của Việt Nam chuyển con đường phát triển của nước dẫn đến
tình hình một lần nữa Trung Quốc lại trở thành mối uy hiếp trực tiếp và nguy hiểm
nhất đối với độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và con đường phát triển của
Việt Nam.
Nội dung các tư liệu này nêu bật trách nhiệm nặng nề của hai ông
Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh vào đầu thập niên 1990 (lúc đó là Tổng bí thư và
Bộ trưởng Quốc phòng) trong quan hệ với Bắc Kinh về việc giải quyết vấn đề
Campuchia và bình thường hóa quan hệ Việt Trung.
Vể cuộc gặp cấp cao Việt – Trung ở Thành Đô diễn ra hai ngày
3 và 4/9/1990, trong hồi ký Hồi ức và Suy nghĩ,
ông Trần Quang Cơ viết :
“Cuộc gặp cấp cao Việt – Trung tại Thành Đô : Ngày 29.8.90,
đại sứ Trương Đức Duy xin gặp gấp Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh và Thủ tướng Đỗ
Mười chuyển thông điệp của Tổng Bí Thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng mời
Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Thủ tướng Đỗ Mười và Cố vấn Phạm Văn Đồng sang
Thành Đô , thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên Trung
Quốc ngày 3.9.90 để hội đàm bí mật về vấn đề Campuchia và vấn đề bình thường
hoá quan hệ hai nước. Trương nói mập mờ là Đặng Tiểu Bình có thể gặp anh Tô (Cố
vấn Phạm Văn Đồng). Trung Quốc còn lấy cớ ở Bắc Kinh đang bận chuẩn bị tổ chức
ASIAD (Á Vận hội) nên không gặp cấp cao Việt Nam ở thủ đô Bắc Kinh được vì khó
giữ được bí mật, mà gặp ở Thành Đô."
Theo ông Trần Quang Cơ :
"Đây quả là một sự chuyển biến đột ngột của phía Trung
Quốc. Trước đây Trung Quốc nói không chỉ sau khi giải quyết xong vấn đề
Campuchia mới gặp cấp cao ta và mới bàn vấn đề bình thường hoá quan hệ. Năm
ngày trước – ngày 24.8.90 – Trung Quốc còn bác bỏ việc gặp cấp cao, nay lại mời
ta gặp cấp cao trong một thời hạn rất gấp và đồng ý cấp cao sẽ nói chuyện về cả
hai vấn đề Campuchia và vấn đề bình thường hoá quan hệ".
Thái độ “ thiện chí ” gấp gáp như vậy của Bắc Kinh không phải
tự nhiên mà có. Nó có những nguyên nhân sâu xa và nhân tố bức bách :
a. Tất cả những hoạt động đối ngoại và đối nội của Trung Quốc
trong hơn 10 năm qua khẳng định chiến lược nhất quán của họ là kiên quyết thực
hiện “ 4 hiện đại ”, biến Trung Quốc thành một cường quốc hàng đầu trên thế giới,
đồng thời xác định vị trí nước lớn của mình trước hết ở Đông Nam Á và châu Á -
Thái Bình Dương. Vì lợi ích chiến lược đó, Trung Quốc kiên trì tranh thủ Mỹ, Nhật,
phương Tây, đồng thời bình thường hoá quan hệ với Liên Xô.
Nhưng sau hơn 10 năm cải cách và mở cửa, tình hình chính trị,
xã hội và kinh tế của Trung Quốc rất khó khăn. Sau sự kiện Thiên An Môn, mục
tiêu chiến lược đó đang bị đe doạ nghiêm trọng. Về đối ngoại, bị Mỹ, Nhật và
phương Tây thi hành cấm vận. Trong khi đó, quá trình cải thiện quan hệ Mỹ-Xô tiến
triển rất nhanh. Xô-Mỹ hợp tác chặt chẽ giải quyết các vấn đề thế giới và khu vực
không kể đến vai trò của Trung Quốc. Ngay trong vấn đề Campuchia, vai trò Trung
Quốc cũng bị lấn át (Xô-Mỹ tiếp xúc trao đổi chặt chẽ về vấn đề Campuchia, cuộc
gặp Sihanouk – Hun Xen ở Tokyo là do sự dàn xếp của Mỹ, Nhật và Thái, ngoài ý
muốn của Trung Quốc). Phương Tây tiếp tục đòi Trung Quốc thực hiện dân chủ và
giải quyết vấn đề Campuchia trên cơ sở kiềm chế Khmer Đỏ.
b. Chuyến đi Đông Nam Á của Lý Bằng (6-13.8.90) nằm trong
yêu cầu chiến lược của Trung Quốc tranh thủ hoàn cảnh quốc tế hoà bình để thực
hiện “ 4 hiện đại ”, diễn ra trong bối cảnh liên minh Trung Quốc xây dựng ở
Đông Nam Á trong 10 năm qua để chống Việt Nam đang tan vỡ sau khi Việt Nam rút
quân khỏi Campuchia và sau khi Mỹ đã điều chỉnh chính sách. Cuộc đi thăm của Lý
đã bộc lộ những điểm đồng và bất đồng giữa Trung Quốc và các nước ASEAN. Các nước
ASEAN vẫn rất lo ngại lý do bành trướng của Trung Quốc. Trung Quốc buộc phải
cam kết nội bộ các nước trong khu vực, ủng hộ các đảng cộng sản và vấn đề Hoa
kiều, tuyên bố sẵn sàng thương lượng và hợp tác về vấn đề Trường Sa. Tiếp tục đối
đầu với Việt Nam không còn phù hợp với chính sách Đông Nam Á của Trung Quốc lúc
này nữa.
c. Sau khi Việt Nam đã hoàn tất việc rút quân khỏi
Campuchia, các nước phương Tây, Mỹ, Nhật, ASEAN đi vào cải thiện quan hệ với ta
theo hướng không có lợi cho tính toán của Trung Quốc ở Đông Nam Á. Trước tình
hình đó, Trung Quốc không muốn chậm chân.
d. Về thời điểm : trong cuộc họp ngày 27 và 28.8.90 tại Nữu
Ước, P5 đã thoả thuận văn kiện khung về giải pháp toàn bộ cho vấn đề Campuchia
(gồm các vấn đề : các lực lượng vũ trang Campuchia, tổng tuyển cử dưới sự bảo
trợ của LHQ, nhân quyền và bảo đảm quốc tế đối với thể chế tương lai của
Campuchia). Văn kiện về nhân quyền không đề cập trực tiếp đến vấn đề diệt chủng,
chỉ nói Campuchia sẽ “ không trở lại chính sách và hành động trong quá khứ ”.
Còn Trung Quốc buộc phải nhân nhượng không còn đòi lập chính
phủ liên hiệp 4 bên ngang nhau, phải chấp nhận vai trò lớn của LHQ. P5 thoả thuận
lịch giải quyết vấn đề Campuchia : trong tuần từ 3.9 đến 9.9 họp các bên
Campuchia ở Jakarta để lập SNC trước phiên họp Đại hội đồng LHQ, tiếp đó họp mở
rộng với các nước trong khu vực (có Trung Quốc), đến khoảng tháng 10-11.90 họp
uỷ ban Phối hợp Hội nghị Paris về Campuchia để soạn thảo Hiệp định trên cơ sở
văn kiện khung do P5 vạch ra, các ngoại trưởng ký Hiệp định; 15 nước trong Hội
đồng Bảo An thông qua.
Trung Quốc đặt cuộc gặp cấp cao Trung-Việt trong cái khung
thời gian này. Tuy nhiên Bắc Kinh giấu không cho ta biết gì về những thoả thuận
giữa họ và các nước lớn trong Hội đồng bảo an, mặt khác cũng giữ kín cuộc hẹn
gặp ta ở Thành Đô vì không muốn làm cho phương Tây và ASEAN lo ngại khả năng
đoàn kết hợp tác giữa Trung Quốc và Việt Nam.
Ngày 30.8.90, Bộ Chính trị họp bàn về việc gặp lãnh đạo
Trung Quốc. Anh Linh nêu ý kiến là sẽ bàn hợp tác với Trung Quốc để bảo vệ chủ
nghĩa xã hội chống đế quốc, và hợp tác giữa Phnom Penh và Khmer Đỏ để giải quyết
vấn đề Campuchia, mặc dù trước đó Bộ Ngoại Giao đã trình bày đề án nêu rõ là rất
ít khả năng thực hiện phương án này vì phương hướng chiến lược của Trung Quốc vẫn
là tranh thủ phương Tây phục vụ “ 4 hiện đại ”.
Anh Lê Đức Anh bổ sung ý anh Linh: “ Phải nói về hoà hợp
dân tộc thực sự ở Campuchia. Nếu không có Pol Pot thì vẫn tiếp tục chiến tranh”. Anh Võ Chí Công không đồng ý, nói: “ Trung Quốc sẽ không nghe ta về hợp tác
bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Trung Quốc muốn tranh thủ phương Tây ”.
Anh Thạch cảnh giác: “ Vẫn có 3 khả năng về quan hệ giữa ta
và Trung Quốc, không phải chỉ là khả năng tốt cả. Dự kiến Trung Quốc sẽ nêu
công thức “ SNC 6+2+2+2 ” để nhấn rõ là có 4 bên Campuchia (trong đó Khmer đỏ
là 1 bên), xoá vấn đề diệt chủng...”. Sự thực sau này cho thấy Trung Quốc còn
đòi cao hơn thế !
Ngày 2.9.90, ba đồng chí lãnh đạo cao cấp của ta đến Thành
Đô đúng hẹn. Tháp tùng có Hồng Hà - Chánh Văn phòng Trung ương, Hoàng Bích Sơn
- Trưởng ban Đối ngoại, và Đinh Nho Liêm – Thứ trưởng Bộ Ngoại Giao. Đáng chú ý
là trong đoàn không có bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch.
Sau 2 ngày nói chuyện (3-4.9.90), kết quả được ghi lại trong
một văn bản gọi là“ Biên bản tóm tắt ” gồm 8 điểm. Khi nghiên cứu biên bản 8 điểm
đó, chúng tôi nhận thấy có tới 7 điểm nói về vấn đề Campuchia, chỉ có 1 điểm
nói về cải thiện quan hệ giữa hai nước mà thực chất chỉ là nhắc lại lập trường
cũ Trung Quốc gắn việc giải quyết vấn đề Campuchia với bình thường hoá quan hệ
giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Trong 7 điểm về Campuchia, 2 điểm là những điểm có tính chất
chung về mặt quốc tế mà 2 bên đang còn tranh cãi (giải pháp chính trị toàn diện
cho vấn đề Campuchia ; rút hết quân Việt Nam ở Campuchia có dẫn chứng), còn 5
điểm thì hoàn toàn là đáp ứng yêu cầu của Trung Quốc. Không có điểm nào theo
yêu cầu của ta cả. Trong bản thoả thuận, vấn đề nổi cộm nhất là điểm 5 về việc
thành lập SNC.
Lãnh đạo ta đã thoả thuận dễ dàng, không do dự (!), công thức
“ 6+2+2+2+1 ” (phía Phnom Penh 6 người; phía “ 3 phái ” 7 người ; 2 của Khmer
đỏ, 2 của phái Son San, 2 của phái Sihanouk và bản thân Sihanouk) mà Từ Đôn Tín
vừa đưa ra ở Hà Nội và bị tôi bác. Công thức này bất lợi cho Phnom Penh, với
công thức “6+6” hay “6+2+2+2”, tức là hai bên có số người ngang nhau mà
Sihanouk và Hun Xen đã thoả thuận ở Tokyo.
Về sáng kiến “ giải pháp Đỏ ” cho vấn đề Campuchia mà lãnh đạo
ta đưa ra, tưởng như phía Trung Quốc sẽ nhiệt liệt hoan ngênh, song Lý Bằng đã
bác đi: “Các đồng chí nói cần thực hiện 2 đảng cộng sản hợp tác với nhau để
phát huy hơn nữa. Tôi đồng ý một phần và không đồng ý một phần. Bốn bên
Campuchia, xét về lực lượng quân sự và chính quyền, mạnh nhất là hai đảng cộng
sản, có vai trò nhiều hơn. Nhưng phần tôi không đồng ý là ở Campuchia không chỉ
có hai đảng cộng sản mà còn có các thế lực khác là lực lượng của Sihanouk và lực
lượng của Son San. Lực lượng của họ không lớn lắm nhưng họ được quốc tế ủng hộ.
Bài xích họ thì cô lập SNC, không thể đoàn kết Campuchia. Cần phải để cho hai
bên kia phát huy tác dụng ở Campuchia ”.
Và Giang Trạch Dân cùng nói thêm : “ Các nước phương Tây rất
chú ý tới quan hệ của chúng ta. Các đồng chí đến đây, cho đến nay các nước
không ai biết, cũng không cho các bên Campuchia biết. Chúng tôi cảnh giác vấn đề
này. Họ cho rằng Việt nam XHCN, Trung Quốc XHCN đều do Đảng Cộng sản lãnh đạo,
họp với nhau bàn cái gì đây ? Vì vậy chúng tôi giữ kín chuyến đi này. Tình hình
quốc tế hiện nay nếu để hai đảng cộng sản bắt tay nhau là sách lược không lợi
cho chúng ta ”.
Thành Đô là thành công hay là thất bại của ta ?
Ngay say khi ở Thành Đô về, ngày 5.9.90 anh Linh và anh Mười,
có thêm anh Thạch và Lê Đức Anh, đã bay sang Phnom Penh thông báo lại với Bộ
Chính trị Campuchia nội dung cuộc gặp gỡ cấp cao Việt-Trung.
Để thêm sức thuyết phục Phnom Penh nhận Thoả thuận Thành Đô,
anh Linh nói với lãnh đạo Campuchia : “Phải thấy giữa Trung Quốc và đế quốc
cũng có mâu thuẫn trong vấn đề Campuchia. Ta phải có sách lược lợi dụng mâu thuẫn
này. Đừng đấu tranh với Trung Quốc đến mức xô đẩy họ bắt tay chặt chẽ với đế quốc”.
Lập luận này được Lê Đức Anh mở rộng thêm: “Mỹ và phương Tây
muốn cơ hội này để xoá cộng sản. Nó đang xoá ở Đông Âu. Nó tuyên bố là xoá cộng
sản trên toàn thế giới. Rõ ràng nó là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm. Ta phải
tìm đồng minh. Đồng minh này là Trung Quốc.”
Nhưng câu trả lời của Heng Somrin, thay mặt cho lãnh đạo
Campuchia, vẫn là : “ Phải giữ nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ
của chúng ta. Những vấn đề nội bộ liên quan đến chủ quyền CPC phải do các bên
CPC giải quyết ”.
Về “ giải pháp Đỏ ”, Phnom Penh nhận định : “ Trung Quốc
không muốn hai phái cộng sản ở Campuchia hợp tác với nhau gây phức tạp cho quan
hệ của họ với Sihanouk và với phương Tây. Vì vậy chúng tôi thấy rằng khó có thể
thực hiện “ giải pháp Đỏ ” vì “ giải pháp Đỏ ” trái với lợi ích của Trung Quốc
”.
Mặc dù ban lãnh đạo Campuchia đã xác định rõ thái độ như vậy,
song Lê Đức Anh vẫn cứ cố thuyết phục Bạn : “ Ta nói “giải pháp Đỏ” nhưng đó là
“ giải pháp Hồng ”, vừa xanh vừa đỏ. Trước mắt không làm được nhưng phải kiên
trì. Ta làm bằng nhiều con đường, làm bằng thực tế. Các đồng chí cần tìm nhiều
con đường tiếp xúc với Khmer Đỏ. Vấn đề tranh thủ Khmer Đỏ là vấn đề sách lược
mang tính chiến lược… Nên kiên trì tìm cách liên minh với Trung Quốc, kéo Khmer
Đỏ trở về… Ta đừng nói với Trung Quốc là làm “ giải pháp Đỏ ”, nhưng ta thực hiện
“ giải pháp Đỏ ” ; có đỏ có xanh…nhưng thực tế là hợp tác hai lực lượng cộng sản
”.
Nguyễn văn Linh bồi thêm : “ Xin các đồng chí chú ý lợi dụng
mâu thuẫn, đừng bỏ lỡ thời cơ. Trung Quốc muốn đi với Mỹ, nhưng Mỹ ép Trung Quốc
nên Trung Quốc cũng muốn có quan hệ tốt với Lào, Việt Nam và Campuchia. Nếu ta
có sách lược tốt thì ta có giải pháp Đỏ."
Theo báo cáo của đại sứ Ngô Điền, thái độ của bạn Campuchia
đối với ta từ sau Thành Đô có đổi khác. Về công khai, bạn cố tránh tỏ ra bị lệ
thuộc vào Việt Nam. Trên cơ sở tính toán về lợi ích của mình, bạn tự quyết định
lấy đối sách, không trao đổi trước với ta, hoặc quyết định trái với sự gợi ý của
ta trên nhiều việc.Nhìn lại, trong cuộc gặp Thành Đô, ta đã mắc lỡm với Trung
Quốc ít nhất trên 3 điểm :
* Trung Quốc nói cuộc gặp Thành Đô sẽ đàm phán cả vấn đề
Campuchia và vấn đề bình thường hoá quan hệ, nhưng thực tế chỉ bàn vấn đề
Campuchia, còn vấn đề bình thường hoá quan hệ hai nước Trung Quốc vẫn nhắc lại
lập trường cũ là có giải quyết vấn đề Campuchia mới nói đến chuyện bình thường
hoá quan hệ hai nước ;
* Trung Quốc nói mập mờ là Đặng Tiểu Bình có thể gặp cố vấn
Phạm Văn Đồng, nhưng đó chỉ là cái “ mồi ” để kéo anh Đồng tham gia gặp gỡ cấp
cao.
* Trung Quốc nói giữ bí mật việc gặp cấp cao hai nước, nhưng
ngay sau cuộc gặp hầu như tất cả các nước đã được phía Trung Quốc trực tiếp hay
gián tiếp thông báo nội dung chi tiết bản thoả thuận Thành Đô theo hướng bất lợi
cho ta.
Ngày 7.9.90 Bộ chính trị đã họp thảo luận về kết quả cuộc gặp
cấp cao Việt-Trung và cuộc gặp cấp cao Việt- Campuchia sau đó, và quyết định
ngay hôm sau Đỗ Mười gặp đại sứ Trung Quốc thông báo lại lập trường của
Campuchia ; đồng thời thông báo với Liên Xô, Lào như đã thông báo với
Campuchia.
Nếu có ai hỏi về công thức “ 6+2+2+2+1 ”, nói không biết.
Nhưng Báo Bangkok Post ngày 19.9.90 trong bài của Chuchart Kangwaan đã công
khai hoá bản Thoả thuận Thành Đô, viết rõ Việt Nam đã đồng ý với Trung Quốc về
thành phần SNC của Campuchia sẽ gồm 6 người của Nhà nước Campuchia, 2 của Khmer
đỏ, 2 của phái Son San, 2 của phái Sihanouk, thành viên thứ 13 là Hoàng thân
Sihanouk giữ chức Chủ tịch Hội đồng.
Tạp chí Kinh tế Viễn Đông (FEER) số 4/10 (10.10.90) đăng bài
Củ cà-rốt và cái gậy viết về cuộc gặp gỡ cấp cao Trung-Việt ở Thành Đô giữa Tổng
Bí Thư Đảng và Thủ tướng hai nước, cho biết hai bên đã thoả thuân công thức “
6+6+1 ” về việc lập SNC.
Phía Việt Nam có nhượng bộ nhiều hơn. Việc Ngoại trưởng hai
nước không dự họp cấp cao là đáng chú ý. Bên trong, Trung Quốc nói họ coi ông
Thạch là người có quan điểm cứng rắn về vấn đề Campuchia cũng như đối với Trung
Quốc.
Ngày 12.10.90, nhà báo Nayan Chanda nói với anh Thạch : “
Trung Quốc đang tuyên truyền rộng rãi là lãnh đạo Việt Nam đánh lừa mọi người,
họ ký kết với lãnh đạo Trung Quốc về thành phần SNC nhưng đã không thực hiện
thoả thuận cấp cao Việt-Trung. Việt Nam lại còn xúi dục chính quyền Phnom Penh
chống việc bầu Sihanouk làm chủ tịch SNC và đưa ra hết điều kiện này đến điều
kiện khác.”
Ngày 5.10.90, anh Nguyễn Cơ Thạch gặp Ngoại trưởng Mỹ Baker.
Baker cho biết là sau khi cuộc họp các bên Campuchia ở
Bangkok vừa qua thất bại, Trung Quốc rất bất bình với lãnh đạo Việt Nam. Trung
Quốc cho rằng lãnh đạo cấp cao của Việt Nam đã hoàn toàn đồng ý với đề nghị của
Trung Quốc về con số 13 thành viên của SNC nhưng lại nói với Phnom Penh là công
thức đó là ý kiến riêng của Trung Quốc, đã không làm gì để thúc đẩy Phnom Penh
thực hiện thoả thuận giữa cấp cao hai nước. Không thể tin được ngay cả lãnh đạo
cấp cao nhất của Việt Nam cũng như Bộ Ngoại giao Việt Nam.
Baker còn nói rằng Trung Quốc đã bác bỏ đề nghị của lãnh đạo
cấp cao nhất của Việt Nam là Việt Nam và Trung Quốc đoàn kết bảo vệ CNXH chống
âm mưu của đế quốc Mỹ xoá bỏ CNXH cũng như đề nghị của Việt Nam về giải pháp dựa
trên liên minh giữa Phnom Penh và Pol Pot.
Còn Lý Bằng trong khi trả lời phỏng vấn của Paisai
Sricharatchang, phóng viên tờ Bangkok Post tại Bắc Kinh, ngày 24.10.90, đã xác
nhận có một cuộc gặp bí mật giữa lãnh đạo Trung Quốc và Việt Nam hồi đầu tháng
9 và cho biết kết quả cuộc gặp đã được phản ảnh qua cuộc họp giữa các bên
Campuchia ngày 10.9.90 tại Jakarta. Trong khi nói không biết chắc phía Việt Nam
đã cố gắng thuyết phục Phnom Penh đến đâu, Lý nhận định là Hà Nội chắc chưa làm
đủ mức. Điều đó có thể thấy được qua việc Phnom Penh đã có “ một thái độ thiếu
hợp tác ”.
Sở dĩ ta dễ dàng bị mắc lừa ở Thành Đô là vì chính ta đã tự
lừa ta.
Ta đã tự tạo ra ảo tưởng là Trung Quốc sẽ giương cao ngọn cờ
CNXH, thay thế cho Liên Xô làm chỗ dựa vững chắc cho cách mạng Việt Nam và chủ
nghĩa xã hội thế giới, chống lại hiểm hoạ “ diễn biễn hoà bình ” của chủ nghĩa
đế quốc do Mỹ đứng đầu. Tư tưởng đó đã dẫn đến sai lầm Thành Đô cũng như sai lầm
“ giải pháp Đỏ ”.
Sau Thành Đô, trong Bộ Chính trị đã có nhiều ý kiến bàn cãi
về chuyến đi này. Song mãi đến trước Đại hội VII, khi Bộ Chính trị họp
(15-17.5.91) thảo luận bản dự thảo Báo cáo về tình hình thế giới và việc thực
hiện đường lối đối ngoại của Đại hội VI và phương hướng tới, cuộc gặp cấp cao
Việt Nam - Trung Quốc ở Thành Đô mới lại được đề cập tới khi bản dự thảo báo
cáo của Bộ Ngoại Giao có câu “ có một số việc làm không đúng với các Nghị quyết
của Bộ Chính trị về vấn đề Campuchia ”.
Cuộc họp này đầy đủ Tổng Bí Thư Nguyễn văn Linh, các cố vấn
Phạm văn Đồng, Võ Chí Công, các uỷ viên BCT Đỗ Mười, Võ Văn Kiệt, Nguyễn Cơ Thạch,
Lê Đức Anh, Mai Chí Thọ, Nguyễn Đức Tâm, Đào Duy Tùng, Đồng Sĩ Nguyên, Đoàn Khuê,
Nguyễn Thanh Bình.
Anh Tô nói :
“ Có thời giờ và có cơ hội đem ra kiểm điểm những việc vừa
qua để nhận định sâu sắc thì tốt thôi. Sau chuyến đi Thành Đô, tôi vẫn ân hận về
thái độ của mình. Nói là tự kiểm điểm thì tự kiểm điểm. Tôi ân hận là ở hai chỗ.
Lúc ở Thành Đô, khi bàn đến vấn đề Campuchia, người nói là
anh Linh. Anh Linh nói đến phương án hoà giải dân tộc Campuchia. Sau đó Lý Bằng
trình bày phương án “ 6+2+2+2+1 ” mà Từ Đôn Tín khi đàm phán với anh Cơ ở Hà Nội
đã ép ta nhận song ta bác. Anh Linh đã đồng ý (nói không có vấn đề). Lúc đó có
lẽ do thấy thái độ của tôi, Giang mời tôi nói. Tôi nói : tôi không nghĩ phương
án 13 này là hay, ý tôi nói là không công bằng... Tôi ân hận là lẽ ra sau đó
đoàn ta nên hội ý lại sau bữa tiệc buổi tối.
Nhưng tôi không nghĩ ra, chỉ phân vân. Sáng sớm hôm sau, mấy
anh bên Ban Đối Ngoại và anh Hồng Hà nói nhỏ với tôi là cốt sao tranh thủ được
nguyên tắc “ consensus ” (nhất trí), còn con số không quan trọng. Tôi nghe hơi
yên tâm nhưng vẫn nghĩ có hội ý vẫn hơn. Sau đó, Trung Quốc đưa ký bản thoả thuận
có nói đến con số 13… Tôi phân vân muốn được biết nội dung trước khi ta hạ bút
ký. Nếu như đoàn ta trao đổi với nhau sau phiên họp đầu, sau khi Lý Bằng đưa ra
công thức 6+2+2+2+1 thì ta có thể có cách bàn thêm với họ.
Hai là trước khi ký văn bản do chuyên viên hai bên thoả thuận,
các đồng chí lãnh đạo cần xem lại và bàn bạc xem có thể thêm bớt gì trước khi
ký. Nghĩ lại, khi họ mời Tổng Bí Thư, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ta sang gặp Tổng
Bí Thư, Chủ tịch Quốc vụ viện, lại mời thêm tôi. Tôi khá bất ngờ, không chuẩn bị
kỹ. Anh Mười cho là họ mời rất trang trọng, cơ hội lớn, nên đi. Nhưng đi để rồi
ký một văn bản mà ta không lường trước hậu quả về phản ứng của Bạn Campuchia, rất
gay gắt. Tôi hiểu là Bạn khá bất bình, thậm chí là uất nhau. Cho ta là làm sau
lưng, có hại cho người ta.”
Anh Linh : “ Anh Tô nhớ lại xem. Không phải tôi đồng ý, tôi
chỉ nói ta nghiên cứu xem xét và cuối cùng đặt vấn đề thông báo lại Campuchia…
Bây giờ tôi vẫn nghĩ thế là đúng. Tôi không thấy ân hận về việc mình chấp nhận
phương án 13… Vấn đề Campuchia dính đến Trung Quốc và Mỹ. Phải tính đến chiến
lược và sách lược. Phải tiếp tục làm việc với Campuchia về chiến lược, phải có
nhiều biện pháp làm cho bạn thấy âm mưu của đế quốc Mỹ chống phá chủ nghĩa xã hội
ở châu Á, cả ở Cuba. Nó đã phá Trung Quốc qua vụ Thiên An Môn rồi, nay chuyển
sang phá ta… Trung Quốc muốn thông qua Khmer Đỏ nắm Campuchia. Song dù bành trướng
thế nào thì Trung Quốc vẫn là một nước xã hội chủ nghĩa.”
Anh Thạch : “ Về chuyện Thành Đô, Trung Quốc đã đưa cả băng
ghi âm cuộc nói chuyện với lãnh đạo ta ở Thành Đô cho Phnom Penh. Hun Xen nói
là trong biên bản viết là “ hai bên đồng ý thông báo cho Campuchia phương án
6+2+2+2+1” nhưng băng ghi âm lại ghi rõ anh Linh nói là “ không có vấn đề gì ”.
Tôi xin trình bày để các anh hiểu nguyên do con số 13 là từ
đâu. Tại Tokyo tháng 6.90, Sihanouk và Hun Xen đã thoả thuận thành phần SNC gồm
hai bên ngang nhau = 6+6. Từ Đôn Tín sang Hà Nội, ép ta nhận công thức
6+2+2+2+1 không được. Đến cuộc gặp Thành Đô, Trung Quốc lại đưa ra. Khi ta sang
Phnom Penh để thuyết phục bạn nhận con số 13 với nguyên tắc làm việc consensus
trong SNC, anh Hun Xen nói riêng với tôi : chúng tôi thắng mà phải nhận số người
ít hơn bên kia (bên ta 6, bên kia 7) thì mang tiếng Campuchia bị Việt nam và
Trung Quốc ép. Như vậy, dù là consensus cũng không thể thuyết phục nhân dân
Campuchia được. Chỉ có thể nhận 12 hoặc 14 thành viên trong Hội đồng Dân tộc Tối
cao. Phải nói là Phnom Penh thắc mắc nhiều với ta. Liên Xô, Anh, Pháp, Nhật, Mỹ
đều cho ta biết là Trung Quốc đã thông báo cho họ đầy đủ về Thoả thuận Thành Đô
và nói với họ là lãnh đạo Việt Nam không đáng tin cậy. Trung Quốc đã sử dụng
Thành Đô để phá quan hệ của ta với các nước và chia rẽ nội bộ ta…”
Hôm sau, Bộ Chính trị họp tiếp, anh Mười nói : “ Ta tán thành Sihanouk làm chủ tịch Hội đồng
Dân tộc Tối cao, Hun Xen làm phó chủ tịch, lấy nhất trí trong Hội đồng Dân tộc
Tối cao làm nguyên tắc. Đây không phải là một nhân nhượng… Nếu có anh Thạch đi
Thanh Đô thì tốt hơn…”
Anh Tô : “ Vấn đề chủ yếu không phải là thái độ của ta ở
Thành Đô như anh Mười nói, mà là kết quả và tác động đến bạn Campuchia đánh giá
ta như thế nào ? Ở Thành Đô, điều ta làm có thể chứng minh được nhưng
Cam-puchia cho là ta giải quyết trên lưng họ. Vì vậy mà tôi ân hận. Tôi ân hận
là về sau này sẽ để lại hậu quả.”
Anh Mười : “ Với tinh thần một người cộng sản, tôi cho là ta
không sai. Ban Campuchia nghĩ gì về ta là quyền của họ. Với tinh thần một người
cộng sản, ta không bao giờ vi phạm chủ quyền của bạn.”
Anh Thạch : “ Họp Bộ Chính trị để kiểm điểm, tôi xin được
nói thẳng. Có phải khi đi Thành Đô về, anh Đỗ Mười có nói với tôi là hai ông
anh nhận hơi sớm. Anh Linh nhận công thức 13 và anh Tô nhận consensus (nguyên tắc
nhất trí) ” .
Anh Võ Văn Kiệt : “ Trong thâm tâm tôi, tôi không đồng ý có
anh Tô trong đoàn đi Thành Đô. Nếu có gặp anh Đặng thì anh Tô đi là đúng. Tôi
nói thẳng là tôi xót xa khi biết anh Tô đi cùng anh Linh và anh Mười chỉ để gặp
Giang và Lý, không có Đặng. Mình bị nó lừa nhiều cái quá. Tôi nghĩ Trung Quốc
chuyên là cạm bẫy”.
Vốn là người điềm đạm, song anh Tô có lúc đã phải phát biểu
: “ Mình hớ, mình dại rồi mà còn nói sự nghiệp cách mạng là trên hết, còn được
hay không thì không sao. Cùng lắm là nói cái đó, nhưng tôi không nghĩ như vậy
là thượng sách. Tôi không nghĩ người lãnh đạo nên làm như vậy.”
Thoả thuận Việt Nam - Trung Quốc ở Thành Đô đúng như anh Tô
lo ngại đã để lại một ấn tượng không dễ quên đối với Phnom Penh. Trong phiên họp
Quốc hội Campuchia ngày 28.2.91, Hun Xen phát biểu :
“ Như các đại biểu đã biết, vấn đề SNC này rất phức tạp.
Chúng ta phải đấu tranh khắc phục và làm thất bại âm mưu của kẻ thù nhưng bọn ủng
hộ chúng không đâu. Mặc dù Hội đồng đã được thành lập trên cơ sở 2 bên bình đẳng
nhưng người ta vẫn muốn biến thành 4 bên theo công thức 6+2+2+2+1, và vấn đề chủ
tịch làm cho Hội đồng không hoạt động được ”.
Tôi còn nhớ khi tiếp tôi ở Phnom Penh, ngày 28.9.90, Hun Xen
đã có những ý khá mạnh về thoả thuận Thành Đô : “ Khi gặp Sok An ở Bangkok hôm
17.9, Trung Quốc doạ và đòi SOC phải công nhận công thức mà Việt Nam và Trung
Quốc đã thoả thuận. Nhưng Phnom Penh độc lập. Sok An đã nói rất đúng khi trả lời
Trung Quốc là ý này là của Việt Nam không phải của Phnom Penh.”
Cuộc hội đàm Thành Đô tháng 9.90 hoàn toàn không phải là một
thành tựu đối ngoại của ta, hiện tại đó là một sai lầm hết sức đáng tiếc về đối
ngoại. Vì quá nôn nóng cải thiện quan hệ với Trung Quốc, đoàn ta đã hành động một
cách vô nguyên tắc, tưởng rằng thoả thuận như thế sẽ được lòng Bắc Kinh nhưng
trái lại thoả thuận Thành Đô đã làm chậm việc giải quyết vấn đề Campuchia và do
đó làm việc bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc, uy tín quốc tế của ta bị
hoen ố.
Việc ta đề nghị hợp tác với Trung Quốc bảo vệ chủ nghĩa xã hội
chống đế quốc Mỹ, thực hiện “ giải pháp Đỏ ” ở Campuchia là không phù hợp với
Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị mà còn gây khó khăn với ta trong việc đa dạng
hoá quan hệ với các đối tượng khác như Mỹ, phương Tây, ASEAN, và tác động không
thuận lợi đến quan hệ giữa ta và đồng minh, nhất là quan hệ với Liên Xô và
Campuchia.
Trung Quốc một mặt bác bỏ những đề nghị đó của ta, nhưng mặt
khác lại dùng ngay những đề nghị đó chơi xấu ta với các nước khác nhằm tiếp tục
cô lập ta, gây sức ép với ta và Campuchia.
Cùng với việc ta thúc ép Phnom Penh đi vào “ giải pháp Đỏ ”,
việc ta thoả thuận với Trung Quốc công thức SNC tại Thành Đô là không phù hợp với
nguyên tắc nhất quán của Đảng ta là không can thiệp và không quyết định các vấn
đề nội bộ của Campuchia, làm tăng mối nghi ngờ vốn có của Campuchia đối với ta,
đi ngược lại chủ trương tăng cường và củng cố mối quan hệ với ta với Campuchia
và Lào.”
Trần Quang Cơ
Hồi ký “Hồi ức và Suy nghĩ”
(Trích)
7 nhận xét:
Bài sưu tầm hay, ít ra cho mọi người biết phần nào về hội nghị thành đô (TQ)mà dân bán tin bán nghi. Tuy nhiên đây chỉ một phần hồi ký, còn văn bản chính thức mới khẳng định được. Ta mất niềm tin với láng giềng CPC và với cộng đồng thế giới vì vi phạm nguyên tắc can thiệp vào công việc của nước khác. Ốc chẳng đeo nổi mình ốc lại đi đánh cứu nước khác để ngày nay chẳng được họ coi là bạn. Tất cả mắc lừa TQ.
Nước lớn là tư duy không chỉ của TQ. Ta cũng 1 thời muốn là nước lớn. Xuất khẩu CS là ý đồ của những người CS.
Cuối cùng là thế.
Chiến lược của VN chiếm đóng lâu dài CPC là quá sai lầm, làm ta hao binh tốn của sau khi đã kiệt quệ trong kháng chiến, chặn đường ta hòa hoãn với phương tây, làm CPC nghi ngờ ta bán đứng họ y như TQ đã bán đứng VN trước đây, ta bị cô lập cực độ-tom lại là đúng ý đồ của TQ.trong khi đó, chiến lược đánh nhanh,dựng lên đối trọng rồi rút về để người CPC g|q với nhau đã không được thực thi.
Thành Đô là một thất bại lớn mà tầm vóc còn chưa lộ hết. Đây là thất bại của ảo tưởng giáo điều XHCN,dẫn đến đặt lợi ích của dân tộc và đất nước dưới lợi ích của CNCS,CNXH.ta thấy rõ các ông NVL,ĐM,LĐA(cha chú của chúng ta đấy, nhưng không vì thế mà không dám nêu sự thật) không hề hối hận vì Thành Đô, trong khi các ông PVĐ,VVK,NCT...thì hối hận và đau đớn. Đọc kỹ thì thấy hình như đã có sự móc nối lên kịch bản trước của các ông nhóm trên với đối phương, đặt các ông nhóm dưới vào thế chuyện đã rồi hoặc bị ra rìa.
Có chuyện có văn bản mà bây giờ người ta nghi là văn bản "bán nước" hay không? Chưa thể khẳng định hay phủ định. Theo lý mà suy thì chuyện VN hớ,sai lầm, thiệt đơn thiệt kép tại TĐ đã rõ, không thể chỉ vì thế mà ém nhẹm vụ TĐ,còn phải có cái gì đó khác hơn, nghiêm trọng hơn khiến người ta phải ém nhẹm nó chứ? Theo lý đó, chừng nào chưa cong khai toàn bộ sự thật, chừng đó còn nghi ngờ chính đáng!
Thì chính thủ trưởng của CNCS thế giới là Stalin đã từng đi đêm với các cấp của CN Quốc Xã Hitler,cứ chối bay chối biến, giờ giải mật mới tâm phục khấu phục đấy thôi.
Tôi đã đọc nhiều cuốn hồi kí viết về VN. Những cuốn hồi kí này chỉ giúp ta có thêm chút ít thông tin để hiểu về 1 giai đoạn lịch sử của đất nước. Tôi không bao giờ tin chính xác tuyệt đối những sự kiện ở trong những cuốn hồi kí này. Bởi vì lí do tế nhị, khách quan mà người viết không bao giờ nói ra hoặc sợ sệt không nói ra, thậm chí trình bày 1 cách vô trách nhiệm và lệch lạc. Hãy kiên nhẫn chờ đợi, sự thật sẽ hiện dần ra.
Tôi không nghĩ hội nghị Thành Đô là mở đầu cho "thời kì Bắc thuộc lần thứ 2" hoặc nặng nề hơn là "hội nghị bán nước". Hội nghị này diễn ra trong thời điểm phe XHCN lâm vào khủng hoảng chính trị trầm trọng, tan rã từng mảng. Hội nghị Thành đô chắc chắn sẽ chiếm phần lớn nội dung này.
Thủ tướng Phạm Văn Đồng là cố vấn của BCH TW ĐCSVN, chắc chắn phải chịu trách nhiệm lớn lao về hội nghị này. Thủ tướng có 32 năm liên tục làm Thủ tướng (1 con số kỉ lục của VN & TG). Thủ tướng cũng có lúc phạm sai lầm như mọi người. Song ở cương vị thủ tướng, sai lầm đó có tác hại lớn lao. Tôi còn nhớ, năm 1975, Thủ tướng đã lạc quan quá mức mà phát biểu trên đài truyền hình VN rằng: "Chúng ta phấn đấu đuổi kịp & vượt 1 số nước tư bản, có thể là nước Pháp có diện tích lớn hơn ta 1 chút". Lúc đó, tôi hoàn toàn bị thủ tướng thôi miên. Ôi! Cái thời ấu trĩ, giáo điều, duy ý chí. Ta cứ ngỡ rằng ta đã "chiến thắng" 3 cường quốc trên TG là ta cũng có khả năng xây dựng được 1 thiên đường.
Xin hãy bao dung một thời ấu trĩ!
Rất đồng ý là ai cũng có thể phạm sai lầm, do thiếu thông tin, do suy diền chủ quan, do trình độ... Và mọi thông tin cũng khó tin cậy hoàn toàn, có những việc ta thấy hiển hiện trước mắt nhưng chưa chắc ta đã hiểu và có kết luận chính xác bản chất sự việc, huống chi là chỉ được nghe lại. Vì vậy phải thận trọng khi nhận định về bất cứ ai, và càng không bao giờ được nghĩ rằng hạ được một người thấp xuống thì vị thế của mình sẽ cao hơn.
Chỉ số IQ của các lãnh đạo VN thấp nhất trong các Quốc gia đang phát triển (theo thống kê của LHQ) vậy vấn đề chiến lược và sách lược của VN thua TQ là điều đương nhiên, dễ hiểu.
Chỉ chăm lo gây mất đoàn kết, tranh giành địa vị, đấu đá nội bộ trong nước với nhau
Khi hội nghị Thành Đô 9.1990,ông PVĐ đã thôi chức Thủ Tướng từ 4-5 năm trước, và kể cả khi đương chức, với cái Đức Độ huyền thoại của mình, ông đóng vai trò điều hòa quan hệ nội bộ Lãnh Đạo VN hơn là người ra quyết sách, là người thay mặt CT Hồ Chí Minh giao thiệp với phương tây, các Tổng Thống Mỹ, Pháp... thường liên hệ với ông, hiểm khi liên hệ trực tiếp với các ông Lê Duẩn,Trường Chinh.
Tại HN Thành Đô, các ông NVL,ĐM,LĐA đã làm việc trước với phía đối phương tại VN qua trung gian của tay đại sứ họ Trương của TQ,qua ngả ban đối ngoại TW thay vì qua kênh chính thức của Bộ Ngoại Giao như quy ước, khi sự việc đã ngã ngũ xem xem, họ bày ra HN TĐ,và để long trọng hoá, kinh điển hóa, có thể là không thể đảo ngược hóa cái hội nghị này, họ kéo cây đa cây đề cuối cùng của thế hệ lãnh đạo đầu tiên là ông Phạm Văn Đồng vào, nói là để cùng với lãnh tụ Đăng Tiểu Bình của TQ "chứng giám" cho cái Hội Nghị ấy,đến giờ chót họ Đặng viện cớ gì đó không có mặt, ông Trần Quang Cơ gọi việc này là"mắc lưỡm",đúng chữ là lừa đảo, ông Phạm Văn Đồng sau có nói là nếu biết ĐTB không đến, ông đã chẳng đi. Tình hình ấy khớp với hồi ký Trần Quang Cơ,theo đó, cụ PVĐ hầu như không biết gì trước, bị đặt trước việc đã rồi, đã được những kẻ khác xào nấu cho "chín mùi" từ trước, và được mời đi để làm long trọng viên theo kiểu"kính nhi viễn chi"từ sự không tử tế tiểu xảo ,thực chất, theo tôi, là sự cố ý hạ nhục dân tộc việt nam.
Đăng nhận xét