Trong
sự trỗi dậy của một cuộc tranh cãi lớn về hàng hải vào mùa xuân năm
ngoái, những hy vọng về một thỏa thuận giữa Trung Quốc và Việt Nam đang
tăng lên ở Biển Đông.
Các
tàu tuần tra Trung Quốc từng gây ra sự cố vào tháng Năm và tháng Sáu
năm ngoái khiến làm rung chuyển các ban bộ ngoại giao trên khắp khu vực
Đông Nam Á đến tận những nơi xa xôi như New Delhi, Canberra, Tokyo và
Washington. Hành động khiêu khích chỉ ra một số các yếu tố ngoại vi cứng
rắn vốn được nhận lệnh từ chính sách của Bắc Kinh về các vùng biển
tranh chấp.
Bị
thúc giục bởi các giải thích quá thiên kiến về sự xâm phạm của
Philippines và Việt Nam vào các vùng lãnh thổ lẽ ra là không thể chối
cãi của Bắc Kinh trên Biển Đông, dư luận Trung Quốc dường như muốn "dạy
một bài học" cho cả hai nước vốn được xem là những người láng giềng bất
tuân.
Trong
mùa hè, một loạt các hoạt động ngoại giao của Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á (ASEAN) đã thu hút những hứa hẹn mới của Trung Quốc rằng họ
sẽ tìm kiếm một giải pháp hòa bình cho các tuyên bố chủ quyền hàng hải
chồng chéo này.
Một
tiếng thở phào chung nhẹ nhõm chào mừng "Hướng dẫn Việc thực hiện Tuyên
bố về ứng xử", thỏa thuận mới của Bắc Kinh trong vùng Biển Đông. Hầu
hết các nước trong khu vực rõ ràng nhìn thấy có rất ít tiềm năng trong
việc thực sự muốn giải quyết cuộc tranh chấp kéo dài âm ỉ, họ chỉ hy
vọng để tránh được một cuộc xung đột vũ trang.
Những
người hoài nghi đã suy đoán rằng sau khi thể hiện sự sẵn sàng ngăn cản
các hoạt động thăm dò dầu khí ngoài khơi bờ biển Việt Nam và
Philippines, Trung Quốc đã quay trở lại giai đoạn lành tính của loại
chiến lược "miệng nói tay làm" chỉ trong thời gian mùa bão của vùng Biển
Đông.
Những
cuộc tranh chấp lãnh thổ này không chỉ là một cuộc tranh cãi về các rạn
san hô và đảo nhỏ từ xa và không đáng kể : Các điểm gây tranh cãi nằm
ngang những tuyến đường biển nhộn nhịp nhất thế giới, một vùng ngư
nghiệp quan trọng và, được nhiều người tin là những hồ lớn dầu và khí
đốt chưa từng được khai thác.
Nếu
không được kiểm soát, cuộc vận động dai dẳng về "chủ quyền bất di bất
dịch", một khẳng định có tính lịch sử mỏng manh của Trung Quốc trên vùng
biển kéo dài đến tận phía nam Singapore đã từng có thể có khả năng dẫn
đến những cuộc đụng độ chết người - không chỉ với các nước đối thủ có
khẳng định chủ quyền tương tự như Philippine, Brunei, Malaysia hay Việt
Nam mà còn cả với các lực lượng hải quân Mỹ.
Tại
một hội nghị gần đây ở Hà Nội, nhà chuyên gia Mỹ được mời đến đã vạch
ra sự gia tăng chú ý mạnh mẽ của Washington đến những diễn biến trong
vùng Biển Đông. Trung Quốc đã vênh vang tự mãn, ông nói, và Hoa Kỳ "chỉ
có thể hưởng lợi từ việc phát huy các nguyên tắc về tự do hàng hải và
giải quyết các tranh chấp một cách hòa bình ... cung cấp cho các nước
Đông Nam Á nhiều lý do để cải thiện quan hệ song phương với Mỹ".
Nếu
ngoại giao của ASEAN là yếu ớt và Mỹ cùng các đồng minh khu vực đang bị
lôi kéo vào cuộc tranh cãi trong khu vực, thì đâu sẽ là tia hy vọng?
Niềm hy vọng ấy chỉ mới xuất phát gần đây từ những chỉ dấu cho thấy rằng
Việt Nam và Trung Quốc có thể tìm ra được một thỏa thuận song phương,
hoặc ít nhất là hướng tới được một Tạm ước (Vivendi modus).
Tám
tháng sau các mối đe dọa về kinh doanh, Trung Quốc và Việt Nam đang
nháo nhào trong các cuộc đàm phán về phần phía bắc của vùng Biển Đông,
phần mở rộng mà không quốc gia nào tranh chấp. Đó là một trò chơi nguy
hiểm nhiều cho các nhà lãnh đạo Cộng sản hai nước.
Vấn
đề đặt ra là chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và các vùng biển lân
cận. Các quần đảo Hoàng Sa bao gồm các đảo, bãi cát và rạn san hô ở phía
nam đảo Hải Nam của Trung Quốc và phía đông bờ biển phía nam miền trung
Việt Nam. Ngư dân từ các quốc gia duyên hải thường xuyên lui tới các
quần đảo trong nhiều thế kỷ, hành động này đã hình thành căn bản cho các
khẳng định chủ quyền có tính lịch sử bởi cả Việt Nam và Trung Quốc.
Theo luật pháp quốc tế, khẳng định lịch sử của Việt Nam mạnh mẽ hơn bởi vì
từ thời quân chủ của Việt Nam, rồi đến Pháp (thuộc địa hóa Việt Nam
trong những năm 1800) và sau đó là Viêt Nam Cộng hòa ("miền Nam Việt
Nam") thực hiện chủ quyền không có gián đoạn từ thế kỷ 16 cho tới năm
1974, khi một đơn vị đồn trú của miền Nam Việt Nam bị dày xéo bởi các
lực lượng Trung Quốc.
Kể
từ đó, mặc dù Hà Nội vẫn bám vào các đòi hỏi của mình, Trung Quốc đã mở
rộng các công sự trên những đảo nhỏ và xây dựng các cơ sở cảng và bãi
đáp máy bay. Tàu thuyền Việt Nam đã bị sách nhiễu, đôi khi bị bắt giữ để
đòi tiền chuộc khi họ cố gắng đánh cá trong vùng biển gần đó.
Vì
thế, thật là ngạc nhiên khi Bắc Kinh, dù an toàn trong sở hữu thực tế
quần đảo Hoàng Sa và dù với lực lượng hải không mạnh hơn nhiều, đã phải
đồng ý "để tăng tốc sự phân định vùng biển ngoài khơi Vịnh Bắc Bộ và ...
tích cực thảo luận hợp tác vì sự phát triển chung của vùng biển này"
vào giữa tháng Mười.
Thậm
chí còn ngạc nhiên hơn là (trong khi bằng chứng lịch sử sẽ được xem
xét), "căn cứ trên một chế độ hợp pháp và các nguyên tắc quy định của
pháp luật quốc tế, bao gồm Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS),
Việt Nam và Trung Quốc sẽ "nỗ lực để tìm kiếm các giải pháp có thể chấp
nhận được về cơ bản và dài hạn cho cả hai bên trong các vấn đề tranh
chấp có liên quan đến biển".
Trong
thời gian chờ đợi một thỏa thuận dứt khoát nhằm giải quyết vấn đề lãnh
thổ, hai bên sẽ tích cực thảo luận về hợp tác cùng phát triển". Căn cứ
vào giá trị mặt nổi, điều này dường như đã cho thấy rằng Trung Quốc rút
lui khỏi tuyên bố về một "thẩm quyền bất di bất dịch" của mình trên toàn
bộ khu vực trong đường cong nổi tiếng hình chữ U chín gạch, một khẳng
định từng bao gồm hơn 80% Biển Đông.
Các chuyên gia pháp lý nói rằng, bất kể là bên nào kiểm soát, quần đảo Hoàng
Sa là không đủ đáng kể để tạo nên một "vùng đặc quyền kinh tế". Vì vậy,
theo các nguyên tắc của UNCLOS, một phần chia của các khu vực tranh
chấp song phương sẽ ở vào khoảng dọc theo đường chia giữa đảo Hải Nam
của Trung Quốc và ven biển miền Trung của Việt Nam. Điều này sẽ phân
chia các vùng biển thành các khu vực gần tương đương bằng nhau.
Nếu
Trung Quốc quan tâm nghiêm chỉnh đến việc dàn xếp một thỏa thuận song
phương, họ cũng có thể phải thừa nhận sự kiểm soát các rạn san hô và đảo
nhỏ của Việt Nam ở phần cuối phía tây của quần đảo Hoàng Sa, khu vực
phía tây của đường chia giữa.
Ưa thích một giải pháp song phương
Trung Quốc có thực sự đồng ý với sự phân giới cắm mốc như vậy? Tối thiểu có bốn lý do chính đáng tại sao họ có thể đồng ý.
Trước
tiên, là vì có một tiền lệ. Năm 2000, sau bảy năm tranh cãi, Trung Quốc
và Việt Nam đã xoay sở để thỏa thuận về phân định biên giới biển của họ
trong Vịnh Bắc Bộ - khu vực có hình ngón tay của Biển Đông nằm giữa các
tỉnh miền Bắc Việt Nam và bờ biển phía tây đảo Hải Nam. Ngoài ra, hai
nước đã thiết lập tuần tra quản lý các nguồn lực (thủy sản) chung. Kết
quả là, một lằn gạch thứ mười đã được xoá hoàn toàn từ "bản đồ đường chữ
U" mà Trung Quốc sử dụng để minh họa cho yêu cầu bồi thường của mình
đến vùng biển phía Nam.
Thứ
hai, Trung Quốc đã từng nhấn mạnh rằng vấn đề chủ quyền lãnh thổ phải
được giải quyết song phương. Nói một cách khác, là họ sẽ không đàm phán
về các tuyên bố chồng chéo ở phần phía nam của Biển Đông với tất cả hoặc
một tập hợp con của các nước ASEAN. Nếu việc thu xếp một thỏa thuận
công bằng song phương với Việt Nam trong một phần của khu vực biển, nơi
chỉ có tranh chấp của hai nước bị đe dọa sẽ chỉ tăng cường đáng kể sự
tín nhiệm của Bắc Kinh.
Thứ
ba, việc duy trì một mối quan hệ dân sự với các nhà lãnh đạo Việt Nam
là hệ trọng đối với Trung Quốc. Chế độ Hà Nội là một loại chế độ duy
nhất khác của cả thế giới, một quyết tâm xây dựng "chủ nghĩa xã hội thị
trường" dưới sự lãnh đạo độc quyền của một đảng cộng sản. Dưới sự bảo
trợ của một Ủy ban Chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam-Trung Quốc, có
một lưu lượng truy cập hai chiều cực lớn của các chuyến thăm nhằm xây
dựng các liên kết hữu nghị giữa các Bộ, các tỉnh lân cận, các tổ chức
chức năng, lực lượng vũ trang và, tất nhiên: các tổ chức đảng.
Thứ
tư, sự đồng ý ấy sẽ hỗ trợ lý thuyết cho rằng các hành động khiêu khích
vào mùa xuân năm ngoái chỉ là công việc của các diễn viên cấp thấp hơn,
ví dụ như của các đơn vị bảo vệ bờ biển Trung Quốc và các công ty dầu
mỏ, những thành phần có kém hiểu biết về mục tiêu rộng lớn hơn của Trung
Quốc trong khu vực. Đến giới hạn mà các thành viên ASEAN tin rằng đó
chính là sự thật, họ sẽ quay trở lại để cũng tin tưởng vào kịch bản
"tăng trưởng trong hòa bình" của Bắc Kinh và bỏ mất sự quan tâm đến phần
vai của Mỹ, Nhật Bản và Úc như các diễn viên trong vở kịch Biển Đông
đang diễn
ra.
Phần
nguy hiểm là rất cao đối với Bộ Chính Trị tại Hà Nội. Kể từ xa xưa,
quản lý một mối quan hệ bất bình đẳng với người hàng xóm khổng lồ ở phía
bắc từng là mối quan tâm cốt lõi của các nhà cầm quyền Việt Nam. Điều đó có nghĩa thuyết phục Trung Quốc rằng Việt Nam sẽ chiến đấu nếu sự toàn vẹn lãnh thổ của mình bị đe dọa, trong khi cũng biết khi nào cần hiển thị sự tôn kính và thương lượng.
Có nhiều thành phần ở Việt Nam,
bao gồm "những nhà phóng khóang" trong nội bộ đảng cầm quyền, những
người sẵn sàng tấn công các nhà lãnh đạo hiện nay nếu họ có vẻ mềm mỏng
đối mặt với Trung Quốc. Và, bộ chính trị chắc chắn phải lo lắng rằng
những người Trung Quốc cực kỳ yêu nước, đặc biệt là thành phần hiếu
chiến trong lực lượng hải quân của Trung Quốc, đang hăm hở muốn chiến
tranh.
Từ đó, chiến lược của Việt Nam
đã không hề nhường nhịn gì cho đến khi Bắc Kinh đặt lên bàn nghị sự một
đề nghị thực tế đủ để có thể xem xét. Trong khi đó, Hà Nội đã xây dựng
phòng thủ, từng bước đưa các vấn đề quan trọng với Trung Quốc vào thế
chờ đợi, nuôi dưỡng mối quan hệ gần gũi hơn với Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản và
Australia một cách phô trương và cho phép công chúng bày tỏ tình cảm yêu
nước trong khu vực chung quanh Đại sứ quán Trung Quốc.
Tuy
nhiên, hiện nay có vẻ như các yếu tố của một thỏa thuận có thể chấp
nhận đã ở trên bàn làm việc, và toàn bộ uy tín của cả hai bộ chinh trị
đã dự phần vào. Chuyến viếng thăm cấp cao của lãnh đạo Đảng Cộng sản
Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đến Bắc Kinh vào tháng Mười, và một lần nữa
trong chuyến thăm của Tập Cận Bình, nhân vật rõ ràng sẽ thừa kế ở Trung
Quốc tại Hà Nội trong tháng Mười hai, nhấn mạnh rằng các nhà đàm phán đã
được hướng dẫn để thi hành "các nhận thức chung của lãnh đạo hai nước".
Khi
Trung Quốc đạt được khả năng quân sự để hỗ trợ các khẳng định sâu rộng
của mình trong vùng Biển Đông, dường như một cuộc xung đột vũ trang là
ngày càng có thể xảy ra, hoặc vì cố tình hoặc vì ngoài ý muốn. Cho đến
nay, Bắc Kinh dường như không quan tâm đến một thỏa thuận nhằm dọn đường
cho các nước ven biển đầu tư năng lực của họ trong việc khai thác chung
về thuỷ sản và các nguồn năng lượng.
Và
khi Hoa Kỳ từ bỏ sự tham dự ở Iraq và Afghanistan, sắp xếp của
Washington nhằm can thiệp vào cuộc xung đột ngày càng trở nên rõ ràng.
Nhưng hiện nay có những hy vọng rằng Việt Nam và Trung Quốc đang di
chuyển theo hướng giải quyết ít nhất là một phần của vấn đề.
Nguồn: Asia Online
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét