Thứ Tư, 18 tháng 4, 2012

"Being assertive" - Tâm Phan (ST: Thủy k42)

"Trong từ điển Tiếng Việt không có từ nào tương đương với từ Assertive trong tiếng Anh. Nếu tra Lạc Việt Từ Điển bạn sẽ được giải thích nó có nghĩa là quả quyết, quyết đoán. Nhưng không phải, quyết đoán là decisive. Từ assertive có ý nghĩa khác hơn rất nhiều. Being assertive nghĩa là cứng cỏi đứng lên bảo vệ sự công bằng cho mình. Thường trong trường hợp bị tấn công bằng ngôn từ hay bị bắt nạt, thay vì sợ va chạm mà co vòi lại ta phải being assertive.


 Rất tiếc là người Việt Nam chưa bao giờ được học điều này trong nhà trường. Khi đi học ở Úc, 1 trong những bài học đầu tiên tôi được học ở trường là "being assertive". Chúng tôi còn được xem cả video với những tình huống, nhân vật để phân tích trường hợp nào là being assertive, trường hợp nào chưa đủ assertive.
 Người Úc luôn khuyến khích thế hệ đi sau phải assertive tìm ra sự thật của 1 vấn đề, bảo vệ sự thật đó cho dù cha mẹ, người lớn tuổi hay người có địa vị cao hơn nói khác đi. Bạn nào ở Úc sẽ thấy các công ty lớn tuyển dụng nhân viên yêu cầu personal skills bên cạnh "kỹ năng đàm phán" là phải being assertive. Nó là điều kiện bắt buộc để trở thành một nhà đàm phán, thương thuyết giỏi.
 Ở Việt Nam chúng ta chỉ được học khiêm tốn - thật thà - lễ độ thôi. Mà cái sự lễ độ được đề cao quá mức đến nỗi người hơn tuổi có quyền làm sai, quyền quát nạt người nhỏ tuổi mà người nhỏ tuổi dù đúng vẫn phải cúi đầu vâng dạ. Như vậy cái ranh giới giữa "lễ độ" và "hèn nhát" hỏi còn bao nhiêu???
 Phải chăng chúng ta quên mất rằng chúng ta luôn có quyền tự bảo vệ mình? Không phải. Vì chúng ta không được học điều đó nên chúng ta không biết là mình có cái quyền đó. Chúng ta chỉ biết rằng nếu chúng ta lên tiếng tự bảo vệ mình thì sẽ bị coi là "thiếu lễ độ" hay "vô lễ". Quanh đi quẩn lại, ta luôn bị trói buộc bởi 2 chữ "vô lễ" mà không thể nào thoát ra nổi. Bởi vì những người sinh ra trước mình sẽ muôn đời hơn tuổi mình, đó là điều không thể thay đổi. Mà người ta hơn tuổi mình thì mình không thể chỉ cho người ta cái sai được. Qui luật (truyền thống Việt Nam) là người lớn tuổi dạy dỗ người trẻ chứ ai đời người trẻ lại dám chỉ dạy người lớn?
Thế nên ngay cả trong cái kho từ vựng tiếng Việt phong phú ấy, không có từ nào để chỉ tính từ assertive như trong tiếng Anh.
 Hãy thử nghĩ xem, cả 1 thế hệ chỉ được dạy về sự lễ độ, trên bảo dưới nghe, cúi đầu vâng dạ, tới trường cô giáo bắt liếm ghế cũng ngoan ngoãn liếm.. thì lớn lên.. là những người điều hành đất nước, bị 1 cường quốc bắt nạt ra yêu sách nọ kia, liệu ta có dám "vô lễ" mà làm trái ý 1 cường quốc không???
 Hay cái từ "lễ độ" đã luôn ăn sâu vào tiềm thức ấy giờ có nghĩa là "hèn nhát" mất rồi???
 Việt Nam có 2 trường hợp kiếm hoi và điển hình của being assertive:
 Trường hợp thứ nhất: Lê Minh Phiếu
 Khi được chỉ định là người rước đuốc Olympic Beijing 2008 anh viết thư bày tỏ sự hãnh diện là người rước đuốc, ca ngợi tinh thần thể thao của Olympic Beijing nhưng phản đối tính chính trị của Olympic này. Như vậy không phải là vô ơn vô lễ với ủy ban Olympic mà là biết phân biệt phải trái, đúng sai và ý thức quyền và nghĩa vụ của mình là phải nói lên sự thật. Đó là being assertive.
 Trường hợp thứ hai: Luật sư Nguyễn Đăng Trừng
 Khi Bộ trưởng Bộ Tư Pháp chỉ định 1 người không phải là luật sư làm Chủ tịch Hội đồng lâm thời luật sư, ông đã phản đối việc này vì nó trái với đề án thành lập Tổ chức Luật sư toàn quốc. Ông đã từ chức để bày tỏ sự bất bình mặc dù đó là lệnh từ cấp trên chỉ đạo. Cấp trên không cho ông từ chức, ông đã rất assertive và nói: tôi không xin từ chức mà tôi thông báo từ chức. Việc từ chức là quyền quyết định của cá nhân tôi chứ không phải "xin-cho".
 Thử hỏi ở Việt Nam có bao nhiêu người assertive như thế. Nhìn lại, hóa ra cả 2 người ví dụ trên đây đều là luật sư, họ có kiến thức đầy đủ về luật pháp và ý thức được quyền của mình và đấu tranh cho cái quyền đó.
 Ở Úc, chẳng cần phải là luật sư hay cử nhân đại học mà từ trẻ con học tiểu học đã được học bài học being assertive như là môn Giáo dục công dân vậy.
 Vì không được dạy về being assertive nên nhiều người Việt Nam khi ra nước ngoài thường rụt rè nhút nhát, người nước ngoài chỉ tấn công bằng 1 câu nói đơn giản như: "gái Việt Nam chúng mày toàn làm điếm" thì chỉ biết cúi đầu chịu nhục mặc dù biết rằng đó không phải là sự thật. Vì ta không biết dùng lý lẽ của mình để bảo vệ sự thật đó ta đã không being assertive.
 Từ assertive không đơn giản chỉ là 1 tính từ mà nó còn là 1 kỹ năng giao tiếp ứng xử theo ta đi suốt cuộc đời.
  Khi còn nhỏ, giao tiếp với bạn học, bị bắt nạt, bị thầy cô trù dập ta phải assertive.
 Lên Đại học, ta phải assertive để bảo vệ luận điểm của mình trước những giáo sư, giảng viên Đại học có trình độ cao hơn ta (nhưng chưa chắc họ đã đúng hơn ta).
 Ra trường đi làm, ta phải assertive với đồng nghiệp nếu như họ giao cho ta những việc không phải như mô tả trong hợp đồng và mình cũng không được trả lương để làm việc đó (rót nước pha trà, chạy việc vặt...)
 Với đối tác làm ăn, ta phải assertive khi họ dọa nạt ta bằng 1 thế lực ngầm nào đó, ép buộc ta phải ký 1 hợp đồng bất lợi cho công ty mình.
 Cuộc sống gia đình, ta phải assertive khi chồng/vợ đổ hết mọi trách nhiệm gánh nặng gia đình lên vai ta. Vợ chồng phải bình đẳng trách nhiệm trong gia đình và với con cái.
Như vậy mới thấy being assertive là vô cùng quan trọng trong việc ứng xử hàng ngày. Ngạc nhiên thay, 1 kỹ năng quan trọng như vậy lại không hề được dạy hay phổ biến ở Việt Nam, thậm chí ta không có 1 từ tiếng Việt nào để chỉ assertive.
 Tâm Phan.
P/S: Đọc bài viết này cháu nhớ đến ngày xưa quá. Being assertive!!!

2 nhận xét:

Nặc danh nói...

Hương Thảo vào chung kết VGT!
http://www.baomoi.com/Home/AmNhac/vtc.vn/Kieu-Van-Thanh-di-tiep-Got-Talent-dan-xep-ket-qua/8290856.epi

TranKienQuoc nói...

Tâm Phan trăn trở đúng với thực trạng nền giáo dục ở VN hiện nay.
Nhưng trước đấy, chúng tôi thế hệ đi trước, còn được dạy "dũng cảm", có lẽ tương đương với assertive. Dũng cảm với cái đúng và cả với cái sai. Đúng phải ủng hộ, sai phải đấu tranh, không biết cúi đầu nhẫn nhục. Nhiều anh chị em không muốn làm việc với sếp ngu là thế.