Trong tín ngưỡng thờ bách thần của người Việt, “hoặc có vị là
tinh túy của núi sông, hoặc có vị là nhân vật linh thiêng, khí thế lừng lẫy về
trước, anh linh còn mãi về sau” (Lời tựa sách Việt điện u linh), nhưng
có 4 vị thần được dân gian tôn vinh là Tứ bất tử. Đó là bốn vị linh
thiêng trường sinh bất tử trong thần điện Việt Nam . Mọi người vẫn cho rằng đó là
Tản Viên Sơn Thánh, Chử Đồng Tử, Thánh Gióng và Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Thực ra, trong
lịch sử đã đã diễn ra không phải hoàn toàn như vậy, và trong chúng ta không
phải ai cũng biết Tứ bất tử là những ai và có từ bao giờ.
Những
ghi chép trong thư tịch cổ
Tài liệu xưa nhất về thuật ngữ Tứ bất tử mà chúng tôi
được biết là bản Dư địa chí, in trong bộ Ức Trai di tập,
(VHv.1772/3 q.6) do Nhà in Phúc Khê, in năm Mậu Thìn (1868) niên hiệu Tự Đức.
Bản Dư địa chí mà chúng ta hiện có là một công trình
nghiên cứu tập thể. Ngoài lời tập chú của Nguyễn Thiên Túng, lời cẩn án của
Nguyễn Thiên Tích và lời thông luận của Lý Tử Tấn, Dư địa chí còn có
những phần do người các thời sau (cụ thể là người các thế kỷ 16, 17, 18) đã
thêm vào và sửa chữa nhiều lần. Trong số họ, có Thư Hiên Nguyễn Tông Quai
(1693-1767).
Thư Hiên Nguyễn Tông Quai ở thế kỷ XVII là người đầu tiên
giải thích thuật ngữ Tứ bất tử, khi ông chú giải điều 32 trong sách Dư
địa chí (VHv.1772/3 tờ 13a) của Nguyễn Trãi.
Lời chú ấy như sau: “... Người đời Thanh nói: Tản Viên Đại Vương
đi từ biển lên núi, Phù Đổng Thiên Vương cưỡi ngựa bay lên không trung, Đồng tử
nhà họ Chử gậy nón lên trời; Ninh Sơn (nay là Sài Sơn) Từ Đạo Hạnh in dấu vào
đá để đầu thai. Ấy là An Nam Tứ bất tử vậy” (Nguyễn Thư Hiên viết: ...
Thanh nhân xưng Tản Viên Đại Vương chi tự hải vãng sơn; Phù Đổng Thiên Vương
chi kỵ mã đằng không; Chử gia Đồng tử chi trượng lạp thăng thiên; Ninh sơn (kim
Sài Sơn) Từ Đạo Hạnh chi ấn thạch đầu thai. Vị An NamTứ bất tử vân).
Giá Sơn Kiều Oánh Mậu (1854-1911) người làng Đường Lâm là
nhà học giả nổi tiếng của cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, trong lời Án sách Tiên
phả dịch lục (AB.289, tờ 4a), in năm Canh Tuất 1910 có viết:
“Tên các vị Tứ bất tử của nước ta, người đời Minh cho là:
Tản Viên, Phù Đổng, Chử Đồng Tử, Nguyễn Minh Không. Đúng là như vậy. (Vì) bấy
giờ Tiên chúa (Liễu Hạnh) chưa giáng sinh nên người đời chưa thể lưu truyền,
sách vở chưa thể ghi chép. Nay chép tiếp vào. (Án: Ngã Tứ bất tử
chi danh, Minh nhân dĩ Tản Viên, Phù Đổng, Chử Đồng Tử, Nguyễn Minh Không.
Đương chi nhiên; thử thời Tiên chúa vị giáng, cố vị cập thế nhân sở truyền, văn
hiến khả trung. Kim tục chi).
Trên đây là những thông tin về Tứ bất tử trong thư tịch
Hán Nôm, hiện đang lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Các tài liệu tiếng Việt
hiện đại về Tứ bất tử thì phong phú hơn nhiều. Dưới đây, chúng tôi xin
điểm qua những tài liệu đó:
Nguyễn Tuân (1910-1987), trong thiên truyện Trên đỉnh non Tản
in trong tập Vang bóng một thời, có viết: “... Bốn vị Tứ bất tử
nơi thế giới u linh: thánh Tản Viên, chúa Liễu Hạnh, Chử Đồng Tử, và Phù Đổng
thiên vương”.
Hà Kỉnh (1922-1995) trong cuốn Truyền thuyết Sơn Tinh
viết: “Ở Việt Nam
ta có bốn vị thần bất tử là: Phù Đổng Thiên Vương, Chử Đồng Tử, Bà chúa Liễu
Hạnh, Tản Viên Sơn Thần”.
Vũ Ngọc Khánh và Ngô Đức
Thịnh, trong chuyên khảo Tứ bất tử chỉ thấy trình bày về bốn vị
thánh bất tử gồm: Tản Viên Sơn Thánh, Chử Đạo Tổ, Đức Thánh Gióng và Thánh Mẫu
Liễu Hạnh.
Bảng thống kê dưới đây
sẽ cho thấy sự xuất hiện của các vị Tứ bất tử trong các tư liệu kể trên (số thứ
tự như số thứ tự các đơn vị tư liệu đã trình ở trên):
STT
|
Tản Viên
Sơn Thánh
|
Chử
Đạo Tổ
|
Thánh Gióng
|
Từ Đạo Hạnh
|
Nguyễn
Minh Không
|
Liễu Hạnh
|
1
|
+
|
+
|
+
|
+
|
||
2
|
+
|
+
|
+
|
+
|
||
3
|
+
|
+
|
+
|
+
|
||
4
|
+
|
+
|
+
|
+
|
||
5
|
+
|
+
|
+
|
+
|
Như vậy các vị Tản Viên Sơn Thánh, Chử Đạo Tổ và Thánh Gióng
luôn luôn cố định và nhất quán trong các tài liệu, các thời đại. Khi Liễu Hạnh
chưa giáng sinh thì Từ Đạo Hạnh hoặc Nguyễn Minh Không được xếp vào hàng Tứ
bất tử. Thư tịch cổ cũng cho biết rằng, việc người Việt thờ phụng Tứ Bất Tử
được người Trung Hoa biết đến và ghi nhận. Điều đó chứng tỏ việc phụng thờ Tứ
Bất tử là một nét tâm linh rất độc đáo và riêng khác của người Việt.
Lý giải về Tứ bất tử
Lý giải về Tứ bất tử
Trước hết, nói về con số bốn (tứ). Trong tư duy của người Việt,
con số này mang tính ước lệ và có ý nghĩa lớn. Tứ (bốn) là một hằng số được
dùng để khái quát về một phạm trù nào đó. Ví dụ: Tứ trấn, An Nam tứ đại tài,
Tràng An tứ hổ, Sơn Tây tứ quý, Mỗ-La-Canh-Cót tứ danh hương v.v..
Và việc chọn lấy 4, trong toàn thể của một tập hợp là chọn lấy
những gì tiêu biểu nhất, độc đáo nhất và có tính thời đại.
Từ bất tử cũng là một tập hợp như vậy. Cũng chính vì thế mà có đến 6 vị
thánh được coi là bất tử trong tín ngưỡng dân tộc Việt. đó là các vị: Tản Viên
Sơn Thánh, Chử Đạo Tổ, Thánh Gióng, Liễu Hạnh, Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh
Không.
Sơn Tinh - Tản Viên Sơn Thánh:
Sơn Tinh - Tản Viên Sơn Thánh:
Sơn Tinh - Tản Viên Sơn Thánh là tên gọi của vị Thần núi Tản, vị
thần tối cổ trong tâm linh dân tộc Việt. Tản Viên Sơn tức là núi Ba Vì, “núi tổ
của nước ta” (Nguyễn Trãi - Dư địa chí). Núi có ba ngọn cao chót vót. Ba
anh em Thánh Tản (còn gọi là Tam vị Đại Vương Quốc chúa Thượng đẳng thần)
chia nhau cai quản, mỗi người một ngọn núi.
Xuất phát từ nhận định cốt lõi tín ngưỡng Sơn Tinh - Tản Viên
Sơn Thánh là TÍN NGƯỠNG THẦN NÚI (Sơn Tinh, Sơn thần) nằm trong hệ thống
tín ngưỡng các hiện tượng tự nhiên, chúng tôi khẳng định rằng, nói Sơn Tinh -
Tản Viên Sơn Thánh là nói tới cả ba anh em thần núi. Như vậy, đương nhiên cả ba
vị thần đó đều thuộc Tứ bất tử.
Cũng từ cốt lõi của tín ngưỡng thần núi của người Việt,
cho nên có hiện tượng công chúa Ngọc Hoa, vợ của Thánh Tản (người anh cả) không
được đề cao ngang hàng với Tam vị Tản Viên Sơn Thánh, dù rằng ở một só làng nơi
giáp ranh giữa Sơn Tây, Ba Vì, Phú Thọ vẫn có những lễ hội đề cao Ngọc
Hoa.
Văn tế, sự sắp xếp các ngai thờ, nghi lễ, tự khí... mà chúng tôi
khảo sát tại những ngôi đền thờ Thánh Tản ở vùng xung quanh núi Ba Vì càng góp
phần làm sáng tỏ cho những nhận định trên đây.
Chử Đạo Tổ:
Chử Đạo Tổ:
Nếu như ở huyền thoại Sơn Tinh - Tản Viên Sơn Thánh, người ta có thể tìm thấy những lớp ý nghĩa cổ xưa nhất của tín ngưỡng chất phác, nguyên thủy bằng cách bóc tách những lớp trầm tích tiềm ẩn trong văn bản thần tích thì với huyền thoại Chử Đồng Tử, công việc trở nên rất khó khăn. Huyền thoại Chử Đồng Tử (Chử Đạo Tổ) là câu chuyện của Đạo Giáo, Đạo Thần Tiên, một tín ngưỡng vốn du nhập từ bên ngoài vào nước ta từ rất sớm. Cốt lõi huyền thoại cũng như tín ngưỡng Chử Đạo Tổ là tín ngưỡng Đạo giáo mang màu sắc tín ngưỡng dân gian thuần Việt. Chử Đồng Tử chính là người đi tiên phong trong cuộc thụ phép thần tiên để tế độ và truyền dạy cho người khác. Dân gian tôn vinh Chử Đồng Tử là Chử Đạo Tổ là vì thế.
Khảo sát hệ thống thờ tự ở đền chính thờ Chử Đồng Tử ở Đa Hòa,
chúng tôi thấy, từ rất xa xưa, ở đó đã có ba pho tượng đồng và ba pho tượng đất
mà cứ vị ngồi ở giữa là Chử Đạo Tổ, hai vị ở hai bên là Tiên Dung và Nội Trạch
Tây Cung. Ở đình Tự Nhiên (huyện Thường Tín, Hà Tây), đối diện với Đa Hòa qua
sông Hồng, khi mở hội cũng rước ba cỗ long kiệu ba vị kể trên.
Mặc dù vậy, nếu xuất phát từ cốt lõi tín ngưỡng Chử Đạo Tổ thì
trong số ba vị này, chỉ có Chử Đồng Tử, là thuộc về Tứ bất tử, của tâm
thức dân gian Việt Nam.
Thánh Gióng là vị “anh hùng độc lập” trong Tứ bất tử.
Thánh Gióng là vị “anh hùng độc lập” trong Tứ bất tử.
Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không, Liễu Hạnh và quá trình hội nhập vào Tứ bất tử:
Trước kia, khi Liễu Hạnh chưa xuất hiện (giáng thế) thì Từ Đạo Hạnh hoặc Nguyễn Minh Không là một trong Tứ bất tử có lẽ là từ những “tiêu chí” sau đây:
- Cả hai vị đều “giáng sinh” trong một triều đại sớm của lịch sử
Việt Nam .
- Từ hai vị này đều làm nảy nở những câu chuyện đậm màu sắc Đạo
giáo - một tín ngưỡng sớm đến với Việt Nam và có nhiều khả năng hội nhập
với tín ngưỡng bản địa.
- Hai vị này đều hóa thân sau khi mất, và đầu thai thành
nhiều kiếp.
Khi Liễu Hạnh “giáng sinh” vào khoảng thế kỷ XVI cũng chính là
lúc ý thức hệ Nho giáo ở nước ta đang đi vào con đường suy thoái. Thực trạng xã
hội loạn lạc, chiến tranh giết tróc, làm cho nhân dân vô cùng cực khổ, khao
khát cháy bỏng về một cõi tâm linh an lạc, siêu thoát. Phật giáo và Đạo giáo có
cơ phát triển trong dân gian. Về Phật giáo, quan niệm Tịnh Độ tông với lối sống
từ bi hỷ xả, với phương thức thỏa mãn nhu cầu tinh thần của con người, với tính
chất dung hòa và phổ cập đã trở nên thắng thế và phổ biến trong suốt các thế kỷ
XVI và XVII. Còn Đạo giáo, với những bùa chú, phép thuật, với những lối hành
đạo phức tạp bởi những biểu tượng đã nhiều lúc trở thành cứu cánh để người ta
tìm về làm chỗ dựa và nuôi dưỡng niềm tin về sự giải thoát. Nội Đạo tràng
ra đời vào lúc này và sớm trở nên thịnh hành, được vua Lê thừa nhận. Tín ngưỡng
tam phủ, mà trung tâm là thờ Mẫu hình thành và phát triển khá nhanh.
Liễu Hạnh “giáng thế” đáp ứng nhu cầu thỏa mãn tâm linh của mọi
giai tầng trong xã hội, phù hợp với tâm thức dân gian Việt Nam . Nếu so với
Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không thì sự phụng thờ Liễu Hạnh bắt nguồn sâu xa từ
trong tín ngưỡng thuần Việt của tâm thức dân gian, rồi lại xâm thực và hòa đồng
vào tín ngưỡng Tứ phủ, nên tín ngưỡng này mang nhiều hơi hướng thời đại, cập
nhật và phù hợp với thực tại. Ra đời trong thời kỳ đó, và với vai trò như vậy,
việc tín ngưỡng Liễu Hạnh trở thành trung tâm của tín ngưỡng Tứ phủ và hội nhập
với Tứ bất tử, trở thành biểu tượng của sự trường tồn là một điều dễ
hiểu.
Từ đó đến nay, tín ngưỡng Tam phủ rồi Tứ phủ luôn luôn là một
trong những trung tâm tín ngưỡng của tâm thức dân gian. Ảnh hưởng của tín
ngưỡng Mẫu Liễu Hạnh mang tính bao trùm, có phạm vi rộng lớn hơn so với ảnh
hưởng của Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không là điều đã khẳng định trong dân
gian.
Tóm lại, trong tâm thức dân gian Việt Nam từng có Tứ bất tử. Các
vị từng được coi là có chân trong Tứ bất tử gồm:
- Tản Viên Sơn thánh (3 anh em)
- Chử Đạo Tổ
- Thánh Gióng
- Thánh Láng Từ Đạo Hạnh
- Nguyễn Minh Không
- Thánh Mẫu Liễu Hạnh
Qua thời gian, cùng với sự xuất hiện những yếu tố mới, mang tính
thời đại về tư tưởng, triết lý, quan niệm thì niềm tin, tín ngưỡng, quan niệm
về Tứ bất tử có sự thay đổi, dẫn đến việc Thánh Mẫu Liễu Hạnh thay thế
Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không, đứng vào hàng Tứ bất tử như là một tất
yếu.
Tuy nhiên, những cắt nghĩa trên đây chỉ là những nét phổ quát
nhất, trên mặt bằng tín ngưỡng của dân gian trong phạm vi rộng lớn, mang đặc
điểm chung nhất. Ở một số nơi, một số vùng, quan niệm tín ngưỡng vẫn có những
nét riêng, và tất nhiên, không phổ biến và chỉ có ảnh hưởng ở phạm vi nhỏ,
hẹp.
Việc phụng thờ Tứ Bất tử là một tín ngưỡng thuần túy Việt Nam , kết tinh
từ những truyền thuyết đẹp đẽ và là một bộ phận không thể tách rời trong di sản
tôn giáo và tinh thần của đất nước. Và chính người Trung Quốc, từ bao đời nay
cũng đã biết đến và ghi nhận tín ngưỡng Tứ Bất tử của Việt Nam .
Nguồn: Thông báo Hán Nôm học 1996.
1 nhận xét:
Một bài viết hay, bổ sung những kiến thức mà ngày xưa ta chưa được học.
Đăng nhận xét