Chúng tôi là những cựu học
sinh của mái trường đầu tiên trên miền Bắc XHCN được mang tên anh. Vì thế chúng
tôi có một mối thân tình với chị Phan Thị Quyên, vợ anh Trỗi. Dù không còn một
mái trường cụ thể nhưng năm nào chị cũng về họp mặt truyền thống và chị được
coi là “bà chị cả” của trường.
Chuyện của 48 năm trước
Sau sự kiện Vịnh Bắc bộ, 5/8/1964,
Mỹ bắt đầu chiến tranh phá hoại ra miền Bắc, đầu tiên ở các tỉnh Vĩnh Linh, Quảng
Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An...
Sau ngày 15/10/1964, báo chí
ở miền Bắc đưa tin: Cuộc thương lượng trao đổi - đòi thả người thợ điện mang
tên Nguyễn Văn Trôi[1]
ở miền Nam Việt Nam,đổi lấy con tin là trung tá không quân Mỹ Micheal Smolenvừa
bị du kích quân Ca-ra-cát (Vê-nê-du-ê-la) bắt giữ -không thành; chính quyền Sài
Gòn đã hèn hạ đưa anh ra pháp trường. Trước khi chết, anh đã quả cảm giật phắt
mảnhđen khăn bịt mắt và hô lớn: “Hãy nhớ lấy lời tôi! Đả đảo đế quốc Mỹ! Hồ Chí
Minh muôn năm! Việt Nam muôn năm…”. Ngay sau đó, các cơ quan, trường học trên
miền Bắc đều tổ chức lễ truy điệu anh. Còn nhớ, vì không có ảnh mà nhiều trường
phải treo di ảnh anh vẽ bằng bút chì.
Sang năm 1965, chiến tranh
phá hoại càng ác liệt. Nhiều cơ quan, trường học ở thành phố lớn phải sơ tán về
nông thôn. Cha mẹ nhiều học sinh lứa chúng tôi đã ra chiến trường, vì thế việc
chăm lo hậu phương cho các gia đình liệt sĩ, gia đình có công và cán bộ, sĩ
quan ra trận cũng là nhiệm vụ quan trọng; xa hơn Đảng và Bác Hồ thấy “cần thiết
phải chuẩn bị lực lượng kế cận cho ngày mai”. Vậy là nhiều đứa chúng tôi được gọi
lên Trường Văn hóa quân đội, đóng ở Hiệp Hòa, Hà Bắc. Doanh trại nằm ngay dưới
đường bay của giặc Mỹ tới bắn phá tuyến quốc lộ 1A, sân bay Kép và Nhà máy Phân
đạm Hà Bắc, rất nguy hiểm nên nhà trường bí mật hành quân lên xã An Mỹ, Đại Từ,
Bắc Thái.
Ngày 15/10/1965, đúng 1 năm
sau ngày anh hy sinh, Bộ Quốc phòng ra quyết định thành lập trường VHQĐ mang
tên Nguyễn Văn Trỗi. Năm học đầu tiên được khai giảng ở An Mỹ, Đại Từ - ATK (An toàn khu) thời kháng
chiến chống Pháp, ngay cửa rừng sườn đông bắc dãy Tam Đảo. Từng khóa tốt nghiệp,
100% nhập ngũ, nhiều bạn bổ sung ngay ra chiến trường.
Trong số bạn bè chúng tôi có
Tất Thắng, Toàn Thịnh – con chú Lê Toàn Thư, Phó trưởng Ban Thống Nhất Trung
ương. Khi trò chuyện mới hay, đầu hè năm 1969, chị Phan Thị Quyên cùng chị Nguyễn
Thị Châu (vợ tử tù Lê Hồng Tư) được tổ chức đón ra Bắc. Đúng ngày sinh nhật Bác
năm ấy, chú Thư đón 2 chị vào thăm Bác. Cả nghĩ đó cũng là hạnh phúc của bạn vì
quen biết được vợ của người anh hùng mà chúng tôi hằng ngưỡng mộ.
Quê hương, gia đình và anh
Trỗi
Sau này khi vào Nam sinh sống,
thường gặp chị Quyên, tôi mới biết được nhiều sự thật cảm động… Khi trò chuyện,
ai cũng nghĩ chị Quyên người Nam vì giọng nói đặc sệt Nam bộ. Vậy mà không phải,
quê nội chị ởthônVăn Giáp, xã Bạch Đằng, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Đông cũ;
cách trung tâm Hà Nội có 17km. Từ năm 1917, dân Văn Giáp đã lang thang tứ xứ,
nhiều người vào tận Nam bộkiếm sống. Thấy mưu sinh đượchọ đã kéo bà con thôn
xóm cùng vào.
Năm 1937, bố mẹ chị gồng
gánh đưa con cái theo cùng, đích đến là Nam Vang. Lúc đầu tá túc ở đồn điền
Chúp (tỉnh Công-pông-chàm); bố làm nghề cắt tóc, mẹ bán hàng xén. Tới năm 1944,
chị mới sinh nên nói giọng Nam từ bé. Vì tham gia hoạt động yêu nước nên cụ ông
bị lùng bắt, phải trốn về Sài Gòn năm 1956, một năm sau cả nhà mới đoàn tụ.
Tới 1951, có đến nửa thôn
Văn Giáp vào mưu sinh ở phía Nam. Họ che chở, bảo bọc nhau và mua cả mảnh đất gần
Ngã tư Phú Nhuận, xây ngôi chùa lấy tên Pháp Vân - thờ 2 bà Pháp Vân, Pháp Lôi
đều là dân Văn Giáp. Tới 1960, thấy cần có đất lo hậu sự, bà con lại chung tiền
mua mảnh đất cỡ 10 công (10.000m2) ở Giồng Ông Tố, ngoại ô Sài Gòn,xây dựng
nghĩa trang mang tên Văn Giáp.
Về Sài Gòn, gia đình chị sống
ở 104 Lê Quốc Hưng (nay thuộc phường 12, Quận 4). Khi tròn 16 tuổi, chị đi làm
cho Hãng bông Bạch Tuyết. Tới năm 1963, gặp anh Trỗi, 2 người yêu nhau và đám
cưới được tổ chức vào ngày 21/4/1964 (ngày 10 tháng 3 âm). Sống bên anh mà
không hề biết anh là chiến sĩ biệt động thành. Chỉ đến khi anh bị bắt rồi chị bị
giam cùng khám với các chị Trương Mỹ Hoa, Nguyễn Thị Châu mới hay: anh Trỗi đi
làm cách mạng. Đúng 6 tháng sau, ngày 15/10/1964 (nhằm 10 tháng 9), anh Trỗi
thân yêu đã ra đi.
Chị kể: “Sáng đó, chị vào
thăm nuôi thì bị giám thị từ chối nhưng không cho biết chúng chuẩn bị xử bắn
anh ngay trường bắn Khám Chí Hòa. Sau khi bắn anh, chúng đưa về Nghĩa trang của
lính ngụy ở Gò Vấp. Vì anh là Việt Cộng, chúng lại đưa về Nghĩa trang Đô Thành
(nay là công viên Lê Thị Riêng)”.
Nghe tin chúng xử bắn anh,
chị chạy đôn đáo khắp nơi mà không thấy. Hôm sau đọc báo mới hay, anh được chôn
ở Nghĩa trang Đô Thành. Đến nơi thấy có đến 3 ngôi mộ mới mà không biết cái nào
của anh? Tới sớm 17/10 nhờtục lệ “mở cửa mả” nên thấy 2 ngôi mộ đã “mở”, chị
cùng ba anh từ Quảng vào mới nhận ra mộ người thân. Gia đình đã chọn chùa Pháp
Vân để cầu siêu cho anh. Sau đó chị phải đưa ba anh về quê nên bà con, cô bác
Văn Giáp thay mặt chị cầu siêu cho anh suốt 7 tuần chay.
Đầu năm 1965, chị quyết định
thoát li. Hôm 25 tháng chạp, chị mang hương hoa ra thăm anh. Vì mộ chôn ở “đất
thí”, sau 3 năm phải dời nên chị bàn trước với bố mẹ: hết 3 năm sẽ đưa hài cốt
anh về Nghĩa trang Văn Giáp. Tới 7/5/1967, cụ lên xin phép dời mộ. Ban quản lí
sinh nghi vì thấy tên Nguyễn Văn Trỗi, cụ nói: trùng tên và cho ít tiền mới
xong. Về Nghĩa trang Văn Giáp cũng vậy, cụ cũng phải lo lót cho cảnh sát khu vực.
Như vậy, mộ phần anh được bà con Văn Giáp hương khói suốt từ bấy đến giờ.
Cứ đến ngày giỗ anh hoặc kỉ
niệm thành lập trường, chúng tôi thường cùng chị ra Nghĩa trang Văn Giáp viếng
anh. Nơi đây trở thành địa chỉ văn hóa cho thanh thiếu niên thành phố tới cắm
trại, tổ chức lễ kết nạp đoàn viên mới. Chị kể: “Trước khi chú Sáu Dân[2]
mất, chú có hỏi thăm về mộ anh Trỗi. Biết anh vẫn an nghỉ ở Nghĩa trang Văn
Giáp, chú nói: “Hay là đưa nó về phần đất của tổ chức dành cho chú ở Nghĩa
trang thành phố?”. Chị cảm ơn và báo cáo: “Thành phố cũng đã dành cho anh chỗ
trên Nghĩa trang liệt sĩ, phòng khi Nghĩa trang Văn Giáp phải di dời do quy hoạch
đô thị mới”. Khi đó chú mới yên tâm”.
Ba lần gặp Bác
“Là người con miền Nam nhưng
chị rất tự hào vì được gặp Bác 3 lần. Lời Bác dặn đã theo chị suốt cuộc đời”,
chị nhớ lại…
Ngày 13/5/1969, chị Quyên
cùng chị Nguyễn Thị Châu, chị Tư Thảo,chị Mười Mẫn và cô Ba Thanh Loan được tổ
chức đón từ R (Tây Ninh) sang Phnôm-pênh để bay ra Bắc. (Ngày đó ông Hoàng
Sihanouk hết lòng với Việt Nam). Ngày
16/5, đoàn tới Hà Nội.
Sáng 19/5, chị Quyên và chị
Châu được đưa lại nhà chú Lê Toàn Thư, nhưng không ai biết sẽ được gặp Bác. Xe
đưa 2 chị vào Phủ Chủ tịch. Mừng quá, nước mắt chảy dài vì không ngờ được vinh
hạnh như thế. Thấy vậy, chú Vũ Kỳ, thư kí riêng của Bác, dặn: “Hôm nay là ngày
sinh của Bác. Biết các cháu mới từ trong Nam ra nên Bác cho 2 cháu vào thăm. Nhưng gặp Bác không được
khóc. Các cháu khóc nhiều sẽ làm Bác xúc động, không có lợi cho sức khỏe vì Bác
dạo này yếu nhiều”. Ngồi trong ngôi nhà nhỏ xưa dùng cho người phục vụ, thấy cụ
già râu tóc bạc phơ, trong bộ quần áo lụa màu mỡ gà, lững thững vòng qua ao cá
tiến tới phòng khách. Định chạy ra đón Bác nhưng chú Vũ Kỳ ngăn lại, phải chờ
cho Bác đến thật gần 2 chị mới chạy ra, ôm lấy Bác.
Hai chị ngồi bên Bác, thân
thiết như cha, con lâu ngày đi xa lâu ngày mới gặp nhau. Bác hỏi thăm đi đường
thế nào, ra Bắc nóng quá có ngủ được không; tình hình trong Nam, ở R có thiếu
thốn không; cha mẹ, gia đình ra sao… Ngồi bên Bác thấy hạnh phúc, chị nhớ tới
anh Trỗi từng mơ ước có ngày ra Hà Nội thăm Bác, vậy mà lần này chỉ có mình chị.
Còn Bác rất tế nhị, không đả động gì tới nỗi đau ấy.
Trò chuyện một lúc, Bác nói:
“Đến bữa trưa rồi, 2 cháu ở lại ăn cơm với Bác”. Bữa cơm hôm đó có cả Thủ tướng
Phạm Văn Đồng và chú Kỳ. Hai chị được ưu tiên ngồi sát bên Bác. Bữa cơm có thịt
gà kho, cà muối và rau muống luộc cùng bát nước rau đánh dấm sấu. Bữa cơm tham
đạm nhưng ngon miệng làm sao. Bác gắp từng miếng ngon cho 2 chị rồi dặn: “Ra đến
miền Bắc, 2 cháu phải ăn uống, bồi dưỡng sức khỏe; nhất là cháu Châu quá yếu, cần
chữa bệnh cho khỏi. Sau đó các cháu còn phải học hành để sau này về phục vụ đồng
bào miền Nam”. Cơm xong, chú Vũ Kỳ cho mang dưa hấu xứ Nghệ ra tráng miệng.
Trước khi ra về, Bác ra
phòng khách lấy 2 bông lay-dơn đỏ cắm trên bàn cho 2 chị. (Chị Quyên mang về ép
vào sổ tay. Cách đây 20 năm, chị đã mang bông hoa này tặng lại Bảo tàng Hồ Chí
Minh).
Cuối tháng 6 năm ấy, 2 chị lại
được đón vào thăm Bác. Hai chị báo cáo với Bác sẽ được Ban Thống nhất bố trí
cho đi nghỉ và thăm một số nước XHCN, trong đó sẽ tham gia đoàn phụ nữsang Cuba
dự kỉ niệm 10 năm Chiến thắng Môn-ca-đa 26/7. Nghe xong, Bác hỏi sẽ ăn mặc ra
sao? Biết sẽ được may áo dài, Bác dặn: khi sang Cuba sẽ phải tiếp xúc với nhiều
tầng lớp nhân dân, nên có bộ bà ba khi về nông thôn, nên có bộ quân phục giải
phóng quân cùng mũ tai bèo khi xuống thăm đơn vị bộ đội, còn áo dài để xuống
máy bay và đi dự tiệc. Rồi Bác khuyên: “Sang Cuba phải đi chặng đường rất dài từ
Hà Nội, Bắc Kinh, Mạc-tư-khoa rồi bay qua Đại Tây Dương tới La Habana, sẽ rất mệt.
Nhân dân Cuba lại rất quý mến dân ta nên đoàn sẽ được tiếp đãi và cho đi thăm
nhiều nơi, sợ rằng sức khỏe của cháu Châu không chịu nổi. Châu nên ở nhà điều
trị cho hết bệnh…”. Hai chị thấy sao mà
Bác chu đáo, cẩn thận đến vậy. Sau đó Bác nói: “Hôm nay họp Bộ Chính trị. Các
chú cần vụ có nấu phở cho các đồng chí ăn trưa. Bác mời 2 cháu ở lại cùng ăn,
xem phở miền Bắc có giống phở miền Nam”.
Đầu tháng 7 năm đó, trước
ngày đoàn lên đường, Bác lại cho gọi 2 chị vào. Sau khi dặn, sang đó không phải
khách sáo, coi như về nhà mình vì nhân dân Cuba và Phi-đen rất quý nhân dân Việt
Nam anh hùng, rồi Bác gửi chị Quyên mang sang tặng Phi-đen tấm ảnh sơn mài vẽ
hình Phi-đen có khảm xà cừ cùng đôi dép cao su. Bác còn dặn: “Đi thăm một số nước
rồi, cháu phải về chuẩn bị học tập. Quyên học lớp mấy rồi?”. Biết chị ở R mới học
hết chương trình lớp 5, Bác lắc đầu: “Cháu phải học hết chương trình phổ thông,
sau đó còn lên đại học. Chỉ có kiến thức mới có thể làm việc tốt cho cách mạng”. Trưa đó, 2 chị cũng ở lại ăn cơm với Bác. Ai
ngờ, đó là lần cuối cùng gặp Bác.
Đám cưới không giấy hôn thú
Phải hàng chục năm sau tôi mới
được nghe câu chuyện cảm động từ con trai cụ Hà Huy Giáp. Thấy chị được mời đi
khắp các đơn vị để nói chuyện về anh Trỗi và giới thiệu tác phẩm Sống Như Anh,
Bác Hồ tâm sự với đồng chí Hà Huy Giáp: “Quyên nó còn trẻ, còn phải xây dựng
gia đình mới. Các đồng chí có đưa đi nói chuyện cũng phải kheo khéo, kẻo khó
cho cháu sau này”. Thế mới biết Bác quan tâm, lo lắng đến từng chi tiết.
Khi từ Cuba về, tại Matxcơva
ngày 3/9/1969, chị Quyên nghe tin Bác mất. Đau xót. “Chị cứ tiếc mãi không có tấm
ảnh nào chụp chung với Bác, em ạ. Nay đã hết cơ hội. Ngày đó chú Kỳ nói: không
được chụp vì phải giữ bí mật”, chị nhớ lại.
Nhớ lời Bác, sau khi đi
Cuba, Liên Xô về, chị vào học Trường phổ thông Lao động Trung ương. Trường có mật
danh HT2 và sơ tán vềTừ Hồ, Bần Yên Nhân, Hưng Yên - cách Hà Nội chừng 20km.
Trường có tới ngàn học viên, toàn là cán bộ khắp các đơn vị, chiến trường vì bận
công tác nay mới có điều kiện đi học bổ túc. Học viên được chia làm 2 khối A và
B cho cán bộ miền Bắc và miền Nam. Khối B cũng khá đông; trong đó có anh Thiện,
dân Bến Tre. Ngày nghỉ, học viên khối A thường đạp xe về nhà, riêng cánh miền
Nam thì ở lại. Họ ra chợ mua mớ cá, mớ rau về cải thiện. Khu trường sơ tán lại
gần bờ sông nên lắm cóc; vậy là có thêm nguồn “thực phẩm không mất tiền”. Chính
những sinh hoạt ấy làm anh, chị thêm gần gũi.
Chị nhắc lại chuyện cũ: “Đêm
30 tết 1965, chị được bí mật đón ra “Y tư” (Y4) – đại bản doanh của Bộ chỉ huy
mặt trận Sài Gòn – Gia Định, đóng tại Hố Bò, Củ Chi; sau đó lên Tây Ninh. Khoảng
tháng 10 năm ấy, chú Sáu Dân từ Y4 về
Tây Ninh, họp với cơ quan Phụ nữ. Biết chị cũng mới từ thành phố ra, chú cho
100 “ria” (tiền Miên) tiêu vặt. Từ đó cứ mỗi lần đi công tác về chú đều có
quà”.
Cũng
năm 1973, trong
buổi liên hoan tiễn chị Châu và chị Duy Liên về lại miền
Nam tại nhà chú Lê Toàn Thư, chị Châu ghé tai chị: "Chú
Sáu Dân và chú Mười Cúc[3] đang ra ngoài này họp. Chị có kể chuyện của em và anh Thiện cho chú Sáu
nghe”. Xa miền Nam đã 4 năm, nhớ nhà, nhớ quê, chị xin phép chú Thư cho lại
thăm 2 chú.Lần đó, chú Thư và chú Tô Lâm (Phó
ban Tuyên huấn Trung ương Cục) đưa chị và anh Thiện
tới thăm chú Sáu. Gặp chú, anh Thiện chào:
-
Chào anh Sáu!
-
Trời, mày đó hả Dũng? – chú bắt chặt tay anh và quay sang chịQuyên – Nghe Châu nói,
học ở ngoài này, cháu có thân với thằng Thiện, mà Thiện có thời gian làm cơ yếu ở Y4. Chú nghĩ hoài mà không nhớ có ai tên Thiện. Té ra, Thiện chính là Tư Dũng, Lê Tâm Dũng.
…
Đầu 1965, anh Tư Dũng được phân công về
Y4. Mậu thân 1968
lại được theo chú Sáu xuống chỉ đạo mặt trận Sài Gòn – Gia Định.
Sau khi về lại “R”, anh đuợc phân công sang Sứ
quán Chính phủ Cách mạng lâm thời tại Phnôm-pênh. Do
yêu cầu bảo mật, anh phải đổi tên Lê Trung Thiện. Năm 1970, sau khi Chính phủ Sihanuok bị đảo chính, anh ra Bắc; sau đó đưọc phụ trách đoàn dũng sỹ diệt Mỹ sang thăm
Tiệp Khắc. Đến đầu 1971, anh vào học tại HT2.
Nghe
kể lại
chuyện cũ, chú Sáu cười: “Thôi, Tư Dũng thì cứ xưng hô “anh em “ cho tiện, còn
Quyên cứ giữ nguyên cách gọi “chú cháu”. Thế hai đứa làm đám cưới đi!”. Mừng quá, chị mách với chú:
- Ở ngoài này cưới phức tạp lắm chú ơi, phải đi đăng
ký kết hôn. Khi đăng ký, Uỷ ban lại đưa tên 2 nguời lên bảng để nhân dân xem có
đúng là anh chưa vợ, chị chưa chồng hay không; nếu đúng thì một tuần lễ sau mới
cho đăng ký… Mà thôi, để cháu học xong rồi về
Nam cưới luôn thể.
- Không nên vậy, nếu học đại học phải 4-5 năm sau mới
xong. Năm nay Quyên đã 29, còn Tư Dũng đã 37
rồi. Cưới đi, nhất là dịp đang có chú ở ngoài này. Thế hiện nay 2 đứa
quân số ở đâu?
- Dạ, trong Nam quản lý ạ. Vì quân số trong Nam, nên
khi bầu cử, tụi cháu không được đi bỏ phiếu.
Khi đó, chú Sáu cuời và quay sang chú Thư:
- Nếu là quân số trong Nam thì có thể cưới không cần
đăng ký. Trong chiến trường, thủ tục rất đơn giản. Khi 2 anh chị yêu thương
nhau và quyết định xây dựng gia đình thì chỉ cần báo cáo tổ chức là xong, sau
đó sẽ làm đám cưới. Ta có thể tổ chức cho
Quyên và Tư Dũng cưới “kiểu miền Nam”.
- Ý anh như vậy thì ta sẽ tổ chức cho 2 đưá cưới
“không đăng ký”- chú Thư trả lời.
Ngày
29/4/1973, vào đợt nghỉ lễ Lao động quốc tế, đám cưới “không có
đăng ký kết hôn” đã được tổ chức tại nhà chú Lê Toàn Thư ở 57 Phan Đình Phùng.
Chú Thư làm chủ hôn. Tối đó, các cô chú ở Ban thống nhất, cả chú Sáu Dân cùng các anh chị bên Trung ương Đoàn, anh chị trong Nam đang học chung cùng bà con
họ hàng thôn Văn Giáp… đến dự đông đủ. Đám cưới tổ chức
theo kiểu “đời sống mới”, đơn giản, chỉ có kẹo
bánh, thuốc lá, nước trà, nhưng thật
vui.
Từ
chương trình lớp 5, chị học hết chương trình lớp 10; đến năm 1973 thì vào học dự
bị Đại học Bách khoa.Sau gỉai phóng, đến tháng 9/1976
chị mới trở về thành phố. Năm học thứ tư, 1979,
đang có bầu, chị vẫn không bỏ học. Tối chủ nhật vào viện thì ngày thứ bảy vẫn
lên lớp. Anh chị đặt tên cháu là Lê Tâm Việt để kỷ niệm anh Trỗi đã hô vang
:”Việt Nam muôn năm!”trước phút hy sinh. Việt từng là cảnh sát hình sự Công an TPHCM. Năm 1987, chị
sinh cháu gái, đặt tên là Lê Phan Hồng Nga để kỷ niệm mẻ dầu đầu tiên của Liên doanh
Vietxovpetro.
Năm 1980,
sau khi ra trường, chị về công tác tại Cty Du lịch TPHCM cho đến khi nghỉ hưu. Còn anh Tư Dũng sau về Thành uỷ TPHCM công tác, trên cương vị Chánh Văn phòng.
Anh Tư
coi chúng tôi như những đứa em và gia đình anh chị là nơi chúng tôi về dự đám giỗ anh Trỗi hàng năm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét