Lính Quân sự ở Đài Tropo Sơn Trà: Kiến Quốc, Đỗ Khôi, Hoàng Sơn, Phạm Văn Kỉnh, Lê Chí Hòa. |
Bài đăng Phổ biến
- Bài hát chế "HN - niềm tin và hy vọng"
- Nguồn Gốc Chữ Nôm của Đỗ Thành (ST: Quốc Việt)
- Thơ gửi từ Úc: THƯỜNG DÂN (Ngô Hà, dân Guilin 1950)
- Làng Cổ Nhuế qua bài viết của Phạm Thế Việt (ST: KC)
- Bài thơ Xứ Quảng (Phan Hoài Thuận)
- Hồ Xuân Hương và bài thơ Vịnh cái quạt (Huỳnh Văn Úc)
- Thiên An Môn (Huy Đức)
- Bia “MET" Berlin (Trần Đình - Berlin)
- Bức tranh sơn dầu "Bắc Kinh 2008", họa sĩ Lưu Dật có ý gì?
- Thông bíu !!!
Thứ Ba, 29 tháng 4, 2014
Thời khắc 11g30 trưa ngày 30/4/1975 bạn ở đâu? (KQ)
Sớm ngày 24/4/1975, đoàn cán bộ Đại học KTQS tiếp quản kĩ thuật hệ thống thông tin ICS của Mỹ ngụy, do thầy Lê Khôi làm trưởng đoàn và thầy Ngô Hai làm phó, xuất phát từ Trạm giao liên số 1, Thường Tín.
Katyn – Giải mã bí ẩn lịch sử Ba Lan – Liên Xô (Nguyễn Thị Mai Hoa; ST: Đạt)
Trong những năm tháng tồn tại, Liên Xô đã có không ít bí mật, trong đó, có những bí mật có khả năng ảnh hưởng đến uy tín và an ninh quốc gia; vì thế, được che chắn, bảo vệ một cách hết sức cẩn trọng với nỗ lực của cả hệ thống chính trị. Chỉ sau khi Liên bang Cộng hòa XHCN Xô-viết sụp đổ, với độ lùi thời gian và dưới tác động của các yếu tố khách quan, chủ quan, những bí mật đó mới dần được hé lộ. Một trong những bí mật như vậy có tên gọi “Sự kiện bi thảm Katyn”.
Về 1 bạn Trỗi (Uttroi)
Mời xem phóng sự đương thời về người từng thủ vai em Phước trong phim "Em Phước" cách đây gần 50 năm.
Vào đây!
Vào đây!
Ta về, rồi “Đến hẹn lại lên” (Quang Việt)
Mới
sắp xa thôi, đã nhớ rồi.
Dù
chẳng muốn xa, Đà Lạt ơi,
Vẫn
phải chia tay, về ngoài ấy.
Sẽ
nhớ về Đà Lạt khôn nguôi.
Nhớ
Xuân Hương - viên ngọc lung linh,
Lăn
tăn gợn sóng dưới trời xanh.
Nhớ
sớm tinh mơ, sương trắng phủ,
Rồi
mặt trời lên, rạng bình minh…
Nhớ
làn nước bạc thác Pren,
Xuống
tới nơi rồi, chẳng muốn lên,
Cứ
muốn hòa trong làn nước ấy.
Khen
ai khéo thế, dệt đăng ten.
Thung
lũng Tình yêu đẹp ngất ngây,
Gió
thổi, trông reo, lòng đắm say.
Hương
thơm man mác ngàn hoa cỏ,
Cứ
muốn lang thang mãi chốn này.
Khắp
nơi, rực rỡ muôn sắc hoa,
Tỏa
hương thơm ngát khắp gần xa.
Rập
rờn, đôi bướm đùa trong nắng,
Ríu
rít, trong ngần tiếng chim ca.
Còn
bao nhiêu thứ làm ta nhớ,
Những
nụ cười, ánh mắt cao nguyên,
Trái
tim nhân hậu, lòng mến khách…
Gặp
một lần, nhớ mãi, không quên.
Chưa
xa đã nhớ ơi là nhớ,
Bao
giờ ta lại gặp nhau đây?
Lại
thấy rừng thông xanh Đà Lạt?
Lại
ngắm Xuân Hương đẹp đắm say?
Chia
tay nhau, Đà Lạt sụt sùi,
Bâng
khuâng, lưu luyến, hạt mưa rơi,
Mưa
như muốn níu chân du khách.
Vẫn
phải xa thôi, Đà Lạt ơi.
Ta
về, rồi “đến hẹn lại lên”
Với
chốn ngàn hoa, chốn thần tiên.
Dù
xa muôn dặm, lòng không cách,
Sẽ
lại gặp nhau, nếu “hữu duyên”.
28/4/2014
Ưu tư ngày 30-4 (CCB Nguyễn Minh Hòa)
Cuộc chiến đã lùi rất xa, 39 năm là thời gian đủ lâu để người ta quên đi
nhiều thứ, những người trẻ nghe chuyện chiến tranh như cổ tích, 39 năm sau trên
mặt đất không còn hố bom, không còn dấu tích những trận chiến đẫm máu, thù hận
đã có phần phôi phai, nhưng sao có những điều cứ day dứt mãi khôn nguôi ở trong
trái tim những người bước ra từ cuộc chiến.
Bia tưởng niệm các liệt sĩ cầu Rạch Chiếc do dân lập |
1. Mỗi ngày hàng triệu người đi qua
cầu Rạch Chiếc (nay đã là cây cầu đôi mới toanh), hầu như không còn ai biết nơi
đây đã từng diễn ra một trận đánh sinh tử của một tiểu đoàn đặc kông thuộc lữ
đoàn biệt động 316 với lực lượng tinh nhuệ của Việt Nam Cộng Hòa vào đêm 28
rạng ngày 29, qua ngày 30, một bên muốn phá cầu còn một bên phải giữ bằng được
cho xe tăng quân chủ lực đi qua, sau 2 ngày đêm kịch chiến, cây cầu giữ được,
nhưng hàng chục chiến sĩ ta đã hy sinh, thân xác các anh bị cá rỉa, bị mục rữa
ra thành bùn đất ở đâu đó dưới lòng sông hay là đã trôi ra biển không một ai
biết nữa. Nhưng điều đáng trách là cho đến nay không ai trả lời chính xác bao
nhiêu chiến sĩ hy sinh ở cây cầu đó? 52, 57 hay nhiều hơn?. Không cơ quan, tổ
chức nào của Quân đội hay cơ quan công quyền đưa ra được danh sách đầy đủ hay
gần đủ họ tên, quê quán những người hy sinh (gần 100% là người Bắc), ngoài một
ước đoán cho có lệ được đưa ra trong các báo cáo nhân ngày lễ lạt. Điều tệ hại
là trong khi cả một chính thể có đầy đủ các bộ, ban ngành, hội đoàn đồ sộ,
hoành tráng mà không làm nổi việc đơn giản này, hoặc giả là không ai muốn làm
và cho đến nay cũng không có được một tấm bia kỷ niệm cho xứng tầm (tấm bia nhỏ
bé hiện nay là của một vài cựu binh và dân tự dựng lên).
CÁI UY CỦA NGƯỜI CHỈ HUY (KHÁNH TƯỜNG)
Tướng Nguyễn Hữu An. |
Làm chỉ huy, đặc biệt là chỉ huy trận mạc, phải có
uy-điều này ai cũng biết. Cái khó là ở chỗ “uy” mà không gia trưởng, không quân
phiệt. Tức “Quan mà không cách”.
Để tránh lý thuyết chay, tôi xin kể một câu chuyện cụ thể về Nhà quân sự tài ba
Nguyễn Hữu An khi ông được Bộ cử sang Bắc Lào, làm Phó cho ông Vũ Lập.
***
Cuối mùa mưa năm 1971, Tổng hành dinh quyết định mở
chiến dịch lớn ở chiến trường Cánh đồng Chum-Xiêng Khoảng. Sau Đường 9-Nam Lào
thì đây là một chiến dịch lớn, triển khai trên diện rộng của liên quân Lào-Viết,
quy mô cỡ Quân đoàn tăng cường, tác chiến hợp đồng binh chủng. Khu chiến sự chủ
yếu diễn ra tại trung tâm Cánh đồng Chum, rất thuận lợi cho tank-pháo phát huy
uy lực. Để bảo đảm thắng lớn, Bộ tăng cường cho Mặt trận 959 hai cán bộ tầm cỡ
là Tông Tham mưu phó, Thiếu tướng Lê Trọng Tấn và Đại tá Nguyễn Hữu An. Bạn Lào
cử hẳn Tổng Tham mưu trưởng Xì-xà-vạt Kẹo Bun-phăn về trực tiếp phối hợp.
Ở đây xin nói về ông Nguyễn Hữu An, và chỉ nói một
khía cạnh nhỏ thôi: Cái uy của ông.
NHỮNG KỶ NIỆM KHÔNG QUÊN VỀ TƯ LỆNH VŨ LẬP
Đại
tá: NGUYỄN VIỆT CƯỜNG
Nguyên Trưởng
Phòng Cán bộ Quân khu Tây Bắc
Nguyên Trưởng
phòng Dân quân Tự vệ - Quân khu Tây Bắc.
%%%
Gặp anh Vũ Lập ngày đầu vào Việt Minh :
Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (3/1945) thì tôi và chú
em Việt Dũng đã được Thống sứ Bắc Kỳ ký đặc
cách tốt nghiệp trường trung cấp y ở Hải Dương. Cũng khoảng thời gian đó, chúng
tôi được biết tin Việt Minh đã vào đến tận
bản Khu Trù, xã Đông Viên, Chợ Đồn, Bắc Kạn quê tôi. Tuy chưa biết Việt Minh là
thế nào, nhưng nghe nói Việt Minh là những người đánh Pháp đuổi Nhật mà cụ Nguyễn
Ái Quốc cũng là người của Việt Minh thì chúng tôi liền rủ nhau về quyết đi theo
Việt Minh !
Tư lệnh Vũ Lập. |
Trước lúc “thoát ly” khỏi gia đình theo Việt Minh, hai
anh em tôi bàn nhau phải có thứ gì làm “quà” cho họ tin và chắc sẽ được nhận
vào (Hồi đó chúng tôi nghĩ như một món quà đầu tay vậy ! ).
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)