Quê tôi ngày xưa là đất trồng thuốc lào. Có lẽ cùng vệt đất do phù sa của sông Văn Úc, sông Luộc, sông Thái Bình bồi đắp nên khắp một vùng từ Tiên Lãng, Vĩnh Bảo cho tới tận làng tôi thuốc lào đặc biệt ngon. Chả hiểu sao đã là anh thuốc lào thì phải tưới bằng phân chó khói mới đượm và say. Giống như ớt phải tưới bằng phân gà mới cay. Nhớ ngày đóng quân ở đảo Kôkông chúng tôi làm công ăn chia với bọn Thái Lan, trồng Cần Sa. Bọn Thái kỹ tới mức không cho chúng tôi bón bất cứ thứ gì ngoài phân gà. Hàng tuần thuyền chở phân gà từ Thái vượt biển chuyển qua. Khi chúng tôi hỏi thì nó nói Cần Sa phải tưới bằng phân gà mới tăng chất lượng, tăng độ “phê”.
Những năm ấy làng xóm thanh bình lắm, đến trộm cắp vặt còn không có huống hồ … thế mà chả hiểu sao bà con nuôi lắm chó thế. Chả biết có phải bà con nuôi chó để lấy cứt bón thuốc Lào hay không? Đi ra đường sơ ý một tí là dẫm phải cứt chó nhất là các cụ già mắt mũi kèm nhèm. Có cụ đi đám giỗ mặc cái quần ta nâu cả năm mới diện một lần. Thế quái nào đi đường “quệt” phải cứt chó, lúc ngồi nhắm rượu, trên mâm có 5 cụ thì mắt mũi cụ nào cũng toét cả, cụ này đổ cho cụ kia cuối cùng người nhà phải lao vào “can thiệp” sai con cháu kiểm tra rồi lột quần của cụ bị “dính cứt ” đem ra ao “gột”. Thế là một cụ quần đùi “hầu” bốn cụ quần dài ngồi nhâm nhi cho đến hết cỗ.
Cánh trẻ con làng tôi thời bấy giờ sáng sáng phải dậy thật sớm một tay xách cái rổ bằng tre có buộc dây lót lá chuối, một tay cầm cái kẹp giống như cái kẹp của cánh thiếu niên nơi thị thành dùng để nhặt hạt táo bán cho hiệu thuốc bắc trong phong trào gây quỹ đội thời 61-62. Hôm nào ngủ quên, dậy muộn thì đến nước đái chó cũng chả còn mùi chứ đừng nói tới cứt, cho nên chúng tôi phải dậy thật sớm. Nhiều khi đánh chửi nhau cũng chỉ vì bãi cứt chó.
Sống ở đất thuốc nên chúng tôi đều tập toẹ rồi nghiện hút. Hà nghiện hút từ năm 8-9 tuổi. Buổi sáng chả có gì tống vào dạ dày, bụng réo sôi ùng ục như hợp tác xã tôi vôi xây trụ sở, đành vớ cái điếu bát của thầy làm một “ bi ” cho đầy phổi rồi say quắc cần câu nằm co tới tận trưa.
Để làm ra được cân thuốc Lào vất vả còn hơn cả trồng lúa. Đất trồng thuốc Lào phải làm thật kỹ. Sau khi bón lót bằng phân chuồng thì đặt giống. Khi cây được 3-4 lá là bắt đầu tưới phân chó và chăm sóc. Lá thuốc lào cay thế mà vẫn có sâu rệp xơi được. Nếu không xử lý, lá bị sâu ăn quăn lại, cây chậm lớn chất lượng thuốc coi như vứt. Người ta phải nấu cơm nếp nát rồi cuốn vào đầu cái que cứ thế lăn trên những lá nào bị rệp, bị sâu. Tất cả rệp lớn, rệp bé … bị cơm nếp dính vào hết … Khi lá thuốc đã già là tới khâu thu hoạch. Thuốc hái về được tước đi phần cuộng và gân, phơi trong bóng mát cho vàng rồi xếp lớp cuộn tròn lại như cái dò lụa ngày tết nhưng dài, có khi dài tới một mét, mét rưỡi cũng không chừng.
Ở quê tôi người ta phải lặn lội sang tận Tiên Lãng, Vĩnh Bảo mời thợ về thái thuốc. Dụng cụ thái thuốc dân trong nghề gọi là “ Cầu ”. “Cầu” gồm một đường “ray” có độ dốc. Đường “ray” này dùng để đặt bó thuốc đã cuộn lên trên. Phía cuối của “cầu” là một cái lỗ để bó thuốc chui qua, đồng thời đây cũng là bộ phận “lấy cữ”. Xắt dày hay mỏng là do người thợ đẩy cuộn thuốc di chuyển nhanh hay chậm trên đường ray. Dao thái thuốc giống như lưỡi kiếm Nhật nhưng không có chuôi dầy hơn có tay nắm ở giữa để người thợ cầm khi thái, đặc biệt rất sắc cạo được cả lông chân. Người thợ ép dao vào “cữ” đều đặn đưa dao lên xuống, sợi thuốc đều tăm tắp cứ thế tuôn ra.
Khi thái xong, thuốc được rải đều trên những tấm liếp, được hồ bột và nhuộm màu. Màu là nguyên liệu tự nhiên từ củ rừng ( hình như là củ nâu). Sau khi hồ và đánh màu thì phơi gió cho khô rồi đóng bánh phân loại. Phân loại thuốc phải nhờ đến các cụ cao niên có nghề hút vài chục năm để đánh giá. Cụ nào được mời thử thuốc sáng phải dậy sớm, mồm phải để thật “thối”, không được đánh răng, không được ăn uống gì. Nhiều khi mẻ thuốc phải thử cả tuần lễ mới xong vì có khi “bi” đầu tiên bắn thử, thuốc ngon quá các cụ say quắc cần câu lăn quay ra phản. Gia chủ lại phải làm cơm rượu chờ cho các cụ tỉnh thết đãi, sáng hôm sau các cụ mới lại tiếp tục được. Công đoạn thử này rất quan trọng vì nó liên quan đến chất lượng từng mẻ thuốc, liên quan tới giá cả. Thuốc Lào đóng bánh được cất giữ trong chum lót lá chuối khô chờ thời, khi nào được giá mới tung ra thị trường.
…
Khi học lớp 5 không hiểu sao Hà bị bệnh. Trời mùa đông lạnh ngắt mà Hà cứ tồng ngồng lao xuống sông ngâm cả ngày. Người nhà phải dỗ dành mãi Hà mới chịu lên bờ. Rồi như người trầm cảm Hà ngồi thu lu trong góc nhà chả đi đâu và nói năng với ai, nhìn ai cũng lừ lừ đôi mắt. Ông Nghị, y tá duy nhất trong làng, thời tây ông từng làm cho Pháp ở bệnh viện Đồn Thủy tận Hà Nội tiếng tây ông thạo lắm. Ông đoán Hà bị bệnh động kinh. Ông Khúc, thầy cúng ở chùa làng thì lại phán “ Nhà Hà bị động long mạch mồ mả”. Nhưng gia đình mời ông cúng bái mãi mất cả thủ lợn, đàn gà và mấy mẻ rượu lậu mà chả giải được. Bỗng dưng Sau một thời gian tự nhiên Hà khỏi bệnh, lại khoẻ mạnh nhanh nhẹn như xưa.
Năm 71 Hà đi bộ đội. Tôi còn nhớ có một lần Hà chiêu đãi chúng tôi ở cửa hàng ăn uống trên phố huyện trong kỳ nghỉ tranh thủ giữa 2 đợt huấn luyện được về thăm nhà. Bữa tiệc gồm cơm độn ngô vàng tươi, đậu phụ sốt cà chua, khoai tây xào và đĩa cá rán. Chả biết có phải là cá rán không nhưng bây giờ nhớ lại cái món cá rán ngày ấy là cá nướng thì đúng hơn vì vẩy cá xém đen. Ngẫm lại thời bấy giờ cửa hàng ăn uống quốc doanh mà món nào cũng rán với xào thì có mà sạt nghiệp. Bữa cơm chỉ mất mấy hào bạc và cái tem gạo mà Hà được thanh toán ở đơn vị. Thế mà bốn đứa ăn no, ăn như chưa từng bao giờ được ăn.
Thời thế lộn tùng phèo cả. Cái món cá nướng hạng bét của ngày xưa nghèo đói ấy lại trở thành món đặc sản của ngày hôm nay.
Sau này nghe Hà kể ngày tiễn anh em bộ đội đi nam ở ga Tiền Trung, trong đoàn người đưa tiễn hôm ấy không có ai là bạn bè người thân của Hà. Chả biết trong hàng ngàn người lính ra đi trong chiều đông năm ấy có ai buồn như Hà không? Hà ngơ ngác chờ người thân trên đường ke sân ga, khi lên tầu Hà cố nhoài người qua ô cửa toa ngoái lại mãi cho tới khi mấy nhịp cầu Lai Vu phía xa bé dần, bé dần rồi khuất hẳn sau làn khói đen. Hà lấy hết sức ném bọc quà qua ô cửa con tàu đang lao nhanh xuống đường rồi nói to với những người đang còng lưng đạp xe trên đường 5 “ Gửi hộ về quê theo địa chỉ … ”. Thế rồi bọc quà cũng được ai đó gửi qua bưu điện về quê cho bố mẹ Hà. Quà là bộ quần áo Tô châu phát trước khi đi nam cho bố và bộ quần áo cũ cho em cùng cái mũ cối tầu.
Kỷ niệm Hà tặng tôi trong những ngày sắp rời xa miền bắc là cuốn tiểu thuyết Ruồi Trâu. Hà nói mua ở hiệu sách huyện. Tôi vẫn ngạc nhiên về món quà này cho tới hôm nay. Tôi chả thấy Hà đọc sách bao giờ thế mà tự dưng lại nhận được món quà hết sức nhân văn của giới học sinh sinh viên có học thời ấy.
Sau ngày hoà bình gặp lại nhau nghe Hà kể đơn vị Hà năm ấy đi nam để bổ sung quân cho chiến trường đông nam bộ. Dọc đường hành quân đạn bom quân số rơi rớt lớp chết, lớp sốt rét một số tụt tạt … Hà là một trong những người lính vào “đến đích”. Tới Tây Ninh quân số được phân chia cho nhiều đơn vị. Một số xuống đồng bằng số còn lại bổ sung cho các đơn vị miền.
Một lần Hà nghe tin hơn chục thằng trong đó có mấy đứa cùng làng nhập ngũ một đợt hành quân bị vướng mìn Claymo “đi” sạch cả. Khi nhận được tin Hà úp mặt vào võng khóc mấy đêm liền, thương cho những thằng bạn vắn số.
Đánh nhau, chống càn bom vùi đạn dập tưởng rồi cũng theo bạn bè thế mà thoát. Sau này sốt rét nặng quá Hà bị đẩy lại phía sau cho bộ phận sản xuất.
Tình cờ trong một lần chuyển gạo cho đơn vị Hà gặp được ông bác họ Làm chỉ huy một trung tâm huấn luyện của miền. Rồi được bác gọi về làm chân công vụ. Hơn năm quản lý trà thuốc bưng bê cho thủ trưởng thì Sài Gòn giải phóng. Ngày ấy cùng nhóm phục vụ thủ trưởng trong rừng ngoài Hà, lính bảo vệ, còn có hai em nấu cơm và y tá việt kiều Campuchia. Cứ một tuần vài tối Hà lại phải xuống kêu y tá lên đấm lưng cho thủ trưởng. Có hôm thủ trưởng nói “ Hôm nay cho y tá nó nghỉ gọi “cấp dưỡng” lên thay ca đấm lưng cho tao”. Sau này Hà mới biết các thủ trưởng trong rừng hầu như thủ trưởng nào cũng như thế cả. Sau khi bắt thề sống thề chết không được hé răng với ai Hà vít đầu tôi: “ Ông bác họ em có cả con với cô y tá”.
Ngày ấy là chiến tranh, là sống, là chết, thôi thì … đằng nào các anh cũng là liệt sỹ, đã hy sinh cho tổ quốc, “đùn” thêm “đứa con” cho các anh nữa cũng chả sao, chắc các anh thông cảm. Vậy nên những trường hợp bị “lỡ” của các thủ trưởng như ông bác họ của Hà sau này đều được tổ chức “hợp thức hoá” thành con em “liệt sỹ” có chế độ chính sách hẳn hoi.
Giải phóng xong Hà muốn về quê ngay. Nhưng công việc nhiều. Mãi tới đầu năm 1976 ông bác họ mới gọi Hà lên. Ông ôn tồn: “ Quê hương đã thống nhất bây giờ là lúc cần có nhiều lực lượng để củng cố xây dựng đất nước. Hiện nay bên dân sự đang cần một số cán bộ nòng cốt để phát triển: Ngành Hải quan, công an và các khối kinh tế. Quân đội cũng đang có chủ trương giảm bớt quân số. Cho cháu 3 lựa chọn: Hải quan, công an và kinh tế. Kinh tế thì bộ thuỷ sản đang thành lập một xí nghiệp đánh cá lớn hoạt động trên biển đó là xí nghiệp đánh cá Chiến Thắng. Đợt này cho cháu về phép thăm gia đình rồi suy nghĩ chọn hướng nào thì tùy. Vào phép bác sẽ cho chuyển ngành. Ngữ mày chữ ít, sức khoẻ lại kém không phục vụ quân đội lâu dài được. Là người lính từng kinh qua bom đạn chiến tranh nay hoà bình tăng cường cho lĩnh vực kinh tế thì quý lắm cháu ạ.”
Rồi ông bảo quản lý đơn vị chuẩn bị cho Hà gói quà. Khi sắp xếp đồ đạc mở gói quà ra Hà hết sức cảm động, trong đó gồm hai cây thuốc lá Rubiquen quân tiếp vụ, xấp vải đen, vải hoa, ký mỳ chính, ít mỳ tôm, bánh kẹo và cái bật lửa chiến lợi phẩm thu được trong dinh Độc Lập có chữ ký của kẻ bại trận, tổng thống Thiệu, làm kỷ niệm.
Quãng cuối năm 1976 tôi có dịp vào Nam. Khi chuẩn bị ra Bắc theo địa chỉ tìm tới thăm Hà. Tôi không còn nhớ căn nhà Hà ở lúc đó nằm ở phố nào chỉ nhớ gần nhà thờ Cha Tam mãi bên quận 5. Đấy là ngôi nhà mặt phố hình ống ba tầng lầu. Hà mở khoá đưa tôi qua tầng 1 lên tầng 2, Hà ở một phòng rộng. Phòng ốc lộn xộn chăn nệm tứ tung, bánh mỳ, đồ ăn thừa, thuốc lá, vỏ rượu vứt lỏng chỏng. Mở tủ lạnh Hà dúi cho tôi chai bia con cọp. Hai đứa cụng chai trong tiếng gió thổi vù vù của cái quạt trần tuốc năng và 3 chiếc quạt cây Hitachi chạy hết số.
- Chạy gì mà lắm quạt thế? Gió thế này khéo cảm thì chết.Vừa nói tôi vừa đưa cả hai tay lên đầu giữ mớ tóc bị mấy cây quạt thổi dựng đứng lên.
- Để nhớ cái thời bão gió tháng 8 ngoài quê anh ạ. Hà cười. Trong nụ cười có cái gì đó hoài cổ chất phác rất thương.
- Nói vui thôi. Em đang thử tải mấy cái quạt. Chạy ròng rã 4 ngày 4 đêm rồi đấy, tính gửi ra Bắc làm quà nhỡ làm sao lại đâm mang tiếng.
- Ấy chết!
Hà giật mình lao tới cái nồi cơm điện cắm từ sáng. Mở nắp nồi bới một hồi Hà lôi ra haichiếc đồng hồ. Một chiếc Ôrient và một Selko dính đầy cơm nếp nhão nhoẹt. Rồi phóng vào toalet sau một hồi cọ rửa cầm hai cái đồng hồ sáng loáng trong tay đi ra, vừa đi vừa gật gù.
- Đúng là cái anh Nhật “nùn Japăng” tốt thật! vẫn chạy êm ru chính xác đến từng giây mà mặt đá cứ trong vắt chả có tý hơi nước nào.
Rồi Hà quay sang tôi:
- Em mới mua định một cái để đeo, một cái gửi về quê cho thầy em. May quá … Tiện gặp anh đây tặng anh một cái làm kỷ niệm, anh thích cái nào thì lấy, còn một cái nhờ anh đem về quê cho thầy em, để thầy em biết giờ mà đánh kẻng hợp tác chứ cái kiểu xem giờ theo bóng nắng thì … Toàn đồng hồ nguyên tử, tự động cả đấy, khỏi phải lên giây.
Buổi trưa Hà đưa tôi đi ăn ở nhà hàng tầu, nhà hàng Đông Kinh. Tôi còn nhớ có món gà rô ty ăn với mỳ xào thập cẩm. Cả đời quen cầm cuốc, cầm cày có biết dao dĩa phóng sết là quái gì đâu nên chọc ngoáy lung tung hất văng cả mỳ xuống nền nhà may mà đùi gà chỉ văng ra bàn nên thu hồi được. Tức mình tôi dùng tay vừa xé vừa xúc tuy dân dã nhưng tiện vả lại ăn uống như thế cảm thấy tự tin hơn.
Quãng 2 giờ chiều hai thằng về đến nhà. Căn nhà thênh thang vẫn chỉ có tôi và Hà lúc này tôi mới thắc mắc. Hà nói: “ Nhà này là nhà em ở từ ngày tiếp quản. Rồi ra quân chuyển ngành ở lại luôn. Chả ai thiết cái nhà như bao diêm sâu hun hút, lại nằm trên con phố mở cửa ra là bị tra tấn toàn tiếng ngoại quốc “Ngộ ngộ, lị lị” chả biết đâu mà lần. Hàng quán ăn uống thì món nào cũng đầy mỡ ngọt lừ như chè đường ngày tết…”
Trong khi Hà ngủ tôi mới có dịp thăm quan hết 3 tầng lầu, phòng nào cũng tủ giường đồ đạc. Tò mò tôi lôi một cái ngăn tủ trong phòng của Hà.
Trời ơi! Nhẫn, sao lại nhiều nhẫn thế, nhẫn vàng hẳn hoi, nhưng sao lại để hớ hênh thế?
Tôi có hỏi, Hà giải thích “ Toàn vàng mạ thôi anh ơi, Cả đời có biết vàng bạc là gì đâu, em bị chúng nó lừa.” Hà chẳng giải thích gì thêm, khuôn mặt bình thản.
Với tay bật cái catsec giọng cô ca sỹ như kẹo kéo gặp trời nắng to vọt ra từ hai chiếc loa đặt trên nóc tủ vừa buồn vừa lạ chả như những thứ nhạc mà tôi từng nghe mấy chục năm qua.
Đêm ấy tôi ngủ lại với Hà. Chai rượu chứa thứ nước màu hổ phách trong vắt vật đổ hai thằng khi tiếng chuông nhà thờ Cha Tam đầu phố điểm giờ nguyện buổi sớm.
Hà kể sau khi trả phép vốn quen mò tôm bắt cá lặn lội sông nước nên Hà xin bác cho chuyển nghành về xí nghiệp đánh cá Chiến thắng. Ngày ấy đám thuỷ thủ Chiến Thắng là giàu lắm. Cá vừa kéo lưới là con buôn đã thu mua ngay trên biển. Tiền cá, tiền dầu, tiền vượt biên hối lộ có chuyến đột xuất mỗi thuỷ thủ kiếm cả cây vàng. Tàu thuyền ra khơi ngày ấy rất khó biên phòng cấp phép kỹ và kiểm soát gắt gao. Chỉ riêng xí nghiệp đánh cá chiến Thắng mới được cấp phép ra khơi xa. Nên đôi khi vớ được tàu vượt biên bị hối lộ là vì thế.
Hà giữ tôi ở lại chơi. Được hai ba ngày thì rủ tôi đi Vũng Tàu. Chúng tôi nhảy xe đò, xuống bến kêu xe ôm chạy thẳng ra bãi trước. Dúi cho tôi ổ bánh mỳ kẹp thịt còn nóng và bịch café đá Hà vừa mua rồi chỉ vào chiếc ghế đá ven bờ biển bảo tôi ngồi chờ. Hà lững thững đi về phía đám đông đang bu quanh hai tàu cá cập dưới bãi. Vừa nhìn thấy Hà đám đàn bà con gái thương lái bỏ cả cá bu lấy:
-Xếp Hà! xếp Hà! Hôm nay không đi biển à?
Thì ra đó là đám bạn hàng của Hà mỗi lần tàu về Vũng Tàu. Hà nói với một cô dáng như chủ vựa: “ Chuẩn bị cho anh ít tôm, cá ngon để tối tiếp bạn. Có con Mú, con Hồng nào to 3-4 kg giữ lại cho anh để sáng mai đem về thanh phố làm quà cho ông bác”.
- Có chứ! xếp cần loại 3- 4 kg chứ “ loại” 50-60 kg tươi rói lúc nào cũng sẵn hầu xếp. Giọng cô chủ vựa oang oang cất lên. Cả lũ đàn bà con gái trên bãi hùa theo cười xoe xóe.
- Tối nay bọn anh nghỉ ở nhà Duyên.
- Được rồi! hai xếp cứ yên tâm về trước tắm giặt nghỉ ngơi giữ sức đi mọi cái bọn em sẽ lo. Vừa nói cặp mắt cô chủ vựa vừa đong đưa như rượu trong ly trên tay của kẻ say.
Duyên là em gái cô chủ vựa. Duyên có đứa con nhỏ, chồng chết trận nhà ngay chợ trung tâm là điểm phân phối cá cho các bạn hàng bán lẻ. Duyên mặn mà chứ không đẹp ngỗ nghịch ào ạt như bà chị không chồng của mình.
Đêm ấy cơm ngon, rượu say và lần đầu tiên trong đời tôi biết thế nào là sự ấm áp dịu dàng của cánh phụ nữ phương nam.
Trong xí nghiệp của Hà đám thuỷ thủ hầu như đều dân bắc, gốc gác lính tráng trận mạc với nhau. Hà sống một mình phóng khoáng hay giúp đỡ mọi người nên anh em rất thương. Ngay đến căn nhà sau này Hà cũng rủ những anh em độc thân khó khăn chưa có nhà đến ở. Khi bạn có gia đình Hà cũng nhường hai tầng lầu cùng một căn phòng nơi tầng 2 còn trống cho bạn.
Rồi căn bệnh cũ,“động kinh”, như định mệnh sau mười mấy năm bỗng dưng tái phát nhưng lần này thì nặng hơn. Xí nghiệp đưa Hà vào viện điều trị. Được ít ngày thì Hà trốn viện và bắt đầu cuộc sống lang thang vô định. Anh em trong xí nghiệp bổ đi tìm. Nhưng tìm làm sao giữa cái thành phố lộn xộn và rộng lớn lại đang khó khăn vật lộn sau chiến tranh. Hà lang thang chẳng biết những đâu cả năm rồi bỗng nhiên mò về được quê. Cơ quan biết tin cho người về nhà đón Hà vào lại Sài Gòn để chữa bệnh. Nhưng bệnh tình Hà ngày càng nặng nhớ nhớ quên quên lúc thì ngồi ôm đầu hét:“Máy bay ném bom”. Lúc thì khóc gào kêu tên những thằng bạn đã chết. Lúc thì ôm khúc cây bắn súng miệng pằng pằng … Hà điên thực rồi. Xí nghiệp đành cho người đưa Hà trở lại quê. Hàng tháng vẫn gửi tiền lương và thuốc cho Hà điều trị. Sau nhiều năm xí nghiệp làm nghĩa cử cuối cùng với Hà, với một người lính đã giải ngũ đó là giải quyết chính sách. Hàng tháng Hà có sổ mất sức hơn 600.000 đ. Nghe nói số tiền này hai mẹ con, rồi cả cô em bị bệnh như Hà nữa sống nhờ vào đó mấy chục năm qua.
Câu chuyện tình nghĩa xí nghiệp cũ nơi Hà công tác bây giờ kể lại người nghe ngỡ chuyện hoang đường. Nhưng đúng là đã có một thời người ta sống với nhau tử tế như thế. Thời quá vãng xa xôi ấy không còn nữa. Nhiều khi gặp bạn bè cũ trong hơi men chỉ biết thều thào vào tai nhau ngậm ngùi: “Bao giờ cho tới ngày xưa”.
Hà vẫn sống. Mấy năm nay tôi không về quê nghe người làng nói dạo này Hà không còn tỉnh người gầy đét, mắt trũng sâu hai gò má nhô cao. Cứ sáng sớm đầu đội mũ bảo hiểm, quần dài, áo bảo hộ chân đất là Hà đi. Đi cho tới khi lặn mặt giời Hà lại mò về nhà. Có hôm người làng thấy Hà tha thẩn trên sân ga Tiền Trung cách nhà gần 20 km. Hà tìm đến đúng sân ga nơi mà 40 năm trước Hà cùng những đứa bạn tuổi 18-20 ngờ ngệch hồn nhiên bước chân lên tàu. Hà vẫn còn may mắn, nhiều đứa bạn ra đi với Hà chiều đông năm ấy không có cơ hội như Hà dù chỉ mong được làm cái bóng vật vờ của chính mình để quay về làm khổ cha khổ mẹ. Hình hài những thằng bạn đã chết giờ chỉ còn là những tấm ảnh truyền thần nhoè nhoẹt màu do ông thợ vẽ trên phố huyện nghĩ ra. Cho dù bạn có căng mắt hàng giờ, dù hồi ức kỷ niệm của bạn có sâu đậm, dạt dào đến bao nhiêu chăng nữa tài thánh bạn cũng không thể nào luận ra được là ai, là thằng bạn nào đang ngồi kia chơ vơ trên nóc tủ bên tấm bằng tổ quốc ghi công loang lổ màu thời gian, tư lự ngắm lũ nhện giăng tơ bắt muỗi mỗi chiều chạng vạng.
Bài đăng Phổ biến
- Bài hát chế "HN - niềm tin và hy vọng"
- MỘT ĐỜI NHỚ NHAU (Trần Phong k5)
- NHỚ DUY ĐẢO
- Thăm tư gia của Nhất Trung
- SINH VIÊN QUÂN SỰ CÙNG NHỮNG CHUYẾN TẦU (KQ)
- Nghề xin ăn không chỉ có ở VN (ST: Trần Đình Ngân)
- Lần đầu công bố: Những phút cuối cùng của Lưu Thế Dũng (Tư liệu gia đình)
- Thơ gửi từ Úc: THƯỜNG DÂN (Ngô Hà, dân Guilin 1950)
- Bài thơ Xứ Quảng (Phan Hoài Thuận)
- CÂU CHUYỆN TẬP KẾT RA BẮC (1954 – 1956) - (Việt Dũng)
Thứ Sáu, 2 tháng 5, 2014
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
4 nhận xét:
Tiên sư anh Tào Tháo!
Sao mấy chuyện gần đây trên trang web này giống chuyện tâm lý chiến thê..?
Sao lại tâm lí chiến? Đây là những gì trong cuộc sống thực mà bạn ta ghi nhận được.
Truyện anh Duy Đảo viết giản dị,mộc mạc nhưng lại dí dỏm đúng chất lính nên rất hấp dẫn.HP
Đăng nhận xét