Thứ Bảy, 9 tháng 5, 2015

Người Không Chân Dung 12

Người ta vẫn thường hỏi tôi Guillaume có giúp cho cơ quan của chúng tôi đánh giá đúng đắn ý nghĩa của chính sách Ostpolitik của ông Brandt không. Nói cách khác, nguy cơ gây tổn hại cho chính sách của Brandt có tương xứng với những thành quả tình báo không? Điều mà chúng tôi mong đợi trên hết mọi sự từ nguồn tin phát xuất tại văn phòng Thủ Tướng là những cảnh báo đúng lúc về những khủng hoảng quốc tế có thể xảy ra. Ưu tiên của Guillaume là cảnh tỉnh. Trước khi anh đi Bonn, tôi có nói với anh và những nhân viên đặc tình khác là chúng tôi không trông chờ chính phủ mới của ông Brandt chệch hướng ra khỏi chính sách của NATO hoặc từ bỏ việc gia tăng vũ khí. Nhưng tôi nghĩ điều này có thể tiến theo chiều hướng làm giảm bớt căng thẳng tại Châu Âu, một triển vọng chúng tôi cần phải để ý.


Công việc của Guillaume thuần túy là chính trị và chúng tôi dùng anh để giám sát tình hình của chính phủ Brandt, ngay từ ban đầu đã có những dằng co nội bộ và bất đồng về những ý định trong đường hướng ngoại giao, đặc biệt là đối với Cộng Hòa Dân Chủ Đức (GDR) và Moscow. Gần đến buổi họp giữa ông Brandt và Thủ Tướng GDR Willi Stoph vào tháng Ba năm 1970, Guillaume tiếp cận một vài kế hoạch của Tây Đức, nhờ vậy, phối hợp với những thông tin từ các nguồn khác, chúng tôi thấy rõ những ý định và lo âu của ông Brandt.
https://server3.kproxy.com/servlet/redirect.srv/slxv/swkfxtbdxkw/p1/images/stories/images/guillaume_brandt1.jpg
Günter Guillaume và Willy Brandt
Günter đã trở thành một giá trị vững vàng hơn đối với chúng tôi. Để chuẩn bị cho đại hội của đảng SPD tại Saarbrücken vào trung tuần tháng 5 năm1970, một văn phòng chính phủ phải được thành lập để giải quyết những công việc thường nhật của đất nước. Guillaume đảm trách văn phòng này và ngẫu nhiên biến anh là người liên lạc giữa văn phòng và cơ quan tình báo hải ngoại Tây Đức! Anh thành công dễ dàng trong cuộc trắc nghiệm này – mọi người đều khen tính hiệu dụng và khả năng làm việc mạnh mẽ của anh – và do đó anh hoàn toàn thông qua an ninh.
Tuy nhiên, tầm quan trọng của anh đối với chúng tôi là bản năng chính trị của anh. Nhờ sự phán đoán của Guillaume, chúng tôi có thể kết luận sớm hơn thường lệ là chính sách Ostpolitik của Brandt, mặc dù có những mâu thuẫn, đánh dấu một cuộc thay đổi thực sự trong chính sách ngoại giao của Tây Đức. Dưới khía cạnh này, công việc của anh giúp làm bớt căng thẳng giữa Đông và Tây, tạo cho chúng tôi lòng tin để tiếp tục tin tưởng về ý định của ông Brandt và đồng minh.
Ngôi sao của Guillaume tiếp tự bay cao. Peter Reuschenbach, giám đốc vận động tranh cử của đảng SPD, đang tìm một ghế tại quốc hội và đề nghị anh thay thế chỗ của đương sự để chuẩn bị bầu cử cho năm 1972. Brandt vừa mới nhậm chức vào năm 1969, vì vậy nhiệm kỳ của ông còn lâu mới chấm dứt, nhưng việc đầu phiếu tín nhiệm tại Quốc Hội (Bundestag) về Hiệp Ước Căn Bản với Cộng Hòa Dân Chủ Đức hầu như thất bại. Chúng tôi giúp ông Brandt thoát hiểm bằng cách mua chuộc Julius Steiner, một đảng viên của Đảng Dân Chủ Thiên Chúa Giáo, năm chục ngàn Đức mã để mua phiếu của y, nhưng số phiếu quá ít đã khiến cho vị Thủ Tướng phải sớm tổ chức một cuộc bầu cử vào ngày 27 tháng Tư năm 1972. Anh nhân viên nhanh trí, làm việc không biết mệt của chúng tôi luôn ở bên cạnh ông trong thời gian đảng Dân Chủ Xã Hội Tây Đức đi vận động tranh cử trên chiếc xe lửa đặc biệt.
Trong suốt thời gian này anh mỗi lúc gần gũi hơn với Brandt và có cơ hội để quan sát những yếu điểm cá nhân của ông. Không phải là một bí mật gì vì ai cũng biết Willy Brandt là một người thích gái gẩm và chuyện tình của ông với nữ ký giả Wiebke Bruns vẫn tiếp tục trong thời gian vận động tranh cử. Trừ khi bà vợ Na-Uy, tên Rut, của Brandt có mặt trên xe lửa (trong trường hợp này bà ở ngay phòng bên cạnh), căn phòng của Guillaume và của ông Brandt được ngăn cách vỏn vẹn bằng một bức tường mỏng. Guillaume khám phá ông Brandt rất thường xuyên ngoại tình và thay đổi đối tượng. Vào giờ phút này, người của chúng tôi là một thành viên tín cẩn của nhóm này, và mối lo lắng duy nhất của chúng tôi là những cơ hội anh phải cụng ly với những đồng nghiệp chính trị có thể làm anh mất đi sự tập trung.
Liên minh hai đảng Dân Chủ Xã Hội và Dân Chủ Tự Do đắc thắng bất ngờ trong cuộc tổng tuyển cử năm 1972. Lần đầu tiên trong lịch sử Tây Đức, một chính phủ không có đảng Dân Chủ Thiên Chúa Giao chiếm đa số trong quốc hội, điều này có nghĩa là chính sách Ostpolitik sẽ được tiến hành. Trong lúc đài truyền hình trình chiếu lễ hội ăn mừng của đảng SPD sau ngày bầu cử, chúng tôi thấy Günter vui mừng cụng ly với ông tân Thủ Tướng Brandt cùng với tất cả đội ngũ của ông.
*
Mùa hè năm đó, Willy Gronau một điệp viên khác của chúng tôi, bí danh Felix, bị bắt tại Tây Bá-Linh. Đương sự là giám đốc của cái gọi là Văn Phòng Đông của Hiệp Hội Thương Đoàn Tây Đức và là một trong những đặc tình lâu năm của chúng tôi. Anh ta bị bắt trong lúc gặp gỡ với sĩ quan chủ nhiệm đến từ Đông Đức. Chúng tôi không rõ anh hay là sĩ quan chủ nhiệm đã bị cơ quan phản gián BND chú ý.
Guillaume và Gronau có những mối liên lạc nghề nghiệp, nhưng cả hai đều không biết người kia là đặc tình của Đông Đức. Chúng tôi không hề nghĩ những điệp viên làm việc hiện trường có thể biết nhau, càng không thể gặp gỡ nhau. Nhưng có lẽ có một định luật chưa được khoa học chứng minh ghi rằng những người lý ra không thể gặp gỡ nhau lại luôn luôn tìm gặp nhau. Gronau lúc đó đến gặp chúng tôi và báo cho chúng tôi biết Guillaume là một đối tượng kết nạp tốt và chúng tôi nên kết nạp anh ta! Điều này gây nên một trận cười nhưng cũng báo động tại bộ tham mưu của chúng tôi. Chúng tôi đang tìm cách tách hai người này ra và định mệnh đã can thiệp dưới hình dáng của phản gián Tây Đức, và tội nghiệp cho Gronau, sự nghiệp coi như kết liễu.
Vì họ quen biết nhau và cùng đứng trong mặt trận chính trị, tôi không lấy làm là chính quyền điều tra Gronau tới hỏi Guillaume về việc này. Nhưng tư cách cố vấn thân cận Thủ Tướng là một đảm bảo gạt bỏ những nghi ngờ khi anh mới được tuyển dụng.
Lúc này Guillaume tham dự tất cả những cuộc họp của đảng và các cấp lãnh đạo của đảng SPD trong quốc hội. Anh học hỏi được nhiều vì anh là người kín đáo và im lặng chịu nghe ngóng trong những lần đối thoại của Brandt trong một nhóm nhỏ. Chúng tôi gia tăng những biện pháp an ninh để bảo vệ Guillaume hơn nữa. Mối liên lạc của chúng tôi với anh giảm thiểu đến mức tối thiếu. Chúng tôi không gởi những thiệp chúc mừng sinh nhật nữa; chỉ có những tin tức đặc biệt quan trọng được gởi đi, và được chuyển qua bằng lời.
Tháng Bảy năm 1973, đợt thương thuyết đầu tiên để thành lập Hội Đồng An Ninh và Hợp Tác Châu Âu (CSCE) bắt đầu. Henry Kissinger, lúc đó là cố vấn an ninh cho Tổng Thống Nixon, tuyên bố một chuyển hướng chiến lược gọi là Tuyên Bố Đại Tây Dương, theo đó những thành viên châu Âu của Liên Minh Bắc Đại Tây Dướng (NATO) chấp nhận vai trò đại cường quốc của Hoa Kỳ trong chiến lước quốc phòng bảo vệ lục địa châu Âu. Khi Washington tiếp tục đàm phán riêng biệt với Luân Đôn và Bonn sau lưng các đối tác đồng minh khác nhằm đẩy mạnh tiến trình này, sự bất bình gia tăng trong nội bộ đồng minh. Đặc biệt là nước Pháp, họ phản đối điều mà họ xem là một nỗ lực cô lập họ.
Chúng tôi không lấy làm ngạc nhiên là phần lớn các thông tin vị Thủ Tướng nhận được về chính sách ngoại giao trong thời gian ông nghỉ mát tại Na-Uy tập trung vào những cuộc đàm phán trong nội bộ NATO về tương lai của Tuyên Bố Bắc Đại Tây Dương, lúc đó đã đạt đến cao điểm. Guillaume phụ trách xem xét những telex và chuẩn bị các công văn của Brandt nhận cùng lúc với thời báo mới ra. Một đội truyền hình đến để quay một phim tài liệu tại nơi nghỉ mát và tĩnh tâm của Thủ Tướng gần Hamar. Người cầm máy quay phim ghi hình ảnh Guillaume ngồi cạnh máy giải mã đang đọc nhũng công văn telex gởi đến và không hề biết đương sự đang quay một tay trùm gián điệp đang làm việc. Tổng kết lại, Guillaume đã bỏ công chép được ba thông tin tối quan trọng.
Thứ nhất, vào ngày 3 tháng 7 năm 1973, là nội dung của một lá thơ bằng tiếng Anh do Richard Nixon gởi đến trong đó ông tìm sự trợ giúp của Brandt để áp lực Pháp phải ký lời tuyên bố này. Lá thơ được ghi « mật » và có chữ ký của Nixon. Thứ hai là một báo cáo chi tiết của Đại Sứ Tây Đức tại Washington nói về những đàm phán mật giữa Bộ Trưởng Ngoại Giao Tây Đức Walter Scheel và Kissinger và Nixon cho biết là bản tuyên bố là một áp lực có tính toán do Nixon tạo ra để củng cố sức mạnh của Hoa Kỳ trước khi có đàm phán tại Hội Đồng An Ninh và Hợp Tác Châu Âu, và ông không thấy có lý do nào để người châu Âu phải đương nhiên chấp nhận đường hướng này. Kissinger và Nixon cũng bày tỏ nỗi lo âu Liên Bang Xô Viết đã có những tiến triển về chiến lược hạt nhân đến mức độ Hoa Kỳ không thể nào báo đảm một cuộc tấn công tiên trước về hạt nhân chống lại những tiến công trên bộ của Xô Viết nếu NATO không củng cố về mặt kỹ thuật. Tài liệu thứ ba Guillaume lấy từ máy Telex của Thủ Tướng trong đó có ghi câu trả lời lãnh đạm của cố vấn trên toàn bộ vấn đề, yêu cầu Brandt tảng lờ áp lực của Hoa Kỳ và tiếp tục mối bang giao tốt với Pháp.
Có những phát biểu tố giác Hoa Kỳ của các đồng minh châu Âu xuất phát từ máy và rơi trực tiếp vào bàn tay hăm hở của Günter Guillaume. Anh đọc qua những lời phản bác của người Anh đối với chiến lược của Hoa kỳ. Paris nặng lời hơn nữa ; Bộ Trưởng Ngoại Giao Pháp Michel Jobert tố cáo Hoa Kỳ hành động như những tay lính cứu hỏa nổi lửa đốt để có thể chạy vào cứu.
Đã đến lúc Brandt phải viết một lá thư cho bộ trưởng ngoại giao của mình để bày tỏ thái độ. Nhưng ông Thủ Tướng không hài lòng với bản thảo của anh cố vấn, đã được gởi đi Bonn, và bỏ cả giờ để sửa chữa lại và dùng đầu bút nỉ xanh. Brandt trao cho Guillaume bản đã được sửa chữa để gửi về Bonn qua máy telex. Guillaume, viện cớ bản chính không được gọn ghẽ để chuyển vào phòng telex với dạng bừa bãi như vậy, đã đánh lại một bản sạch sẽ. Không ai hỏi bản chính của Brandt đã ra sao.
Sau này, khi Guillaume ra tước tòa, chánh án biện lý nhấn mạnh sự kiện chuyển giao cho Liên Bang Xô Viết những thông tin về sự chia rẽ trong nội bộ NATO
Có thể làm suy giảm tiềm năng ngăn chặn của NATO đối với Liên Bang Xô Viết, một tiềm năng xác định trên quyết tâm khả tín của các quốc gia thành viên để thành lập một nền quốc phòng chung, một sự liên đới thực thụ giữa các đồng minh và một sự quân bình chiến lược của các lực lượng quân sự. Điều này có thể khiến Liên Bang Xô Viết trong những chọn lựa chính trị và chiến lược dùng những biện pháp nhằm phá vỡ liên minh Tây phương và sau này biến chúng thành những biện pháp cưỡng ép chính trị.
Trong hồi ký của mình, viết ra một phần để tạo thêm bối rối cho Bonn trong vụ việc này (sau khi được cơ quan của tôi cho nhào nặng và thiết kế để phổ biến phản tin – để bảo vệ những nguồn tin khác của chúng tôi – và là một hình thức quảng cáo tốt cho công việc của chúng tôi và sự cần thiết của chúng, Guillaume nhấn mạnh việc chuyển giao những tài liệu của Brandt cho chúng tôi là một thành quả lớn của khối tình báo Xô Viết. Anh kết luận về ngày nghỉ mát của ông Thủ Tướng tại Na-uy :
Thánh địa trên hết các thánh địa của Bonn bây giờ nằm ở thánh địa trên hết các thánh địa tại Bá Linh.
Qua câu nói này, anh muốn nói là sau khi đã chụp những tài liệu và bỏ chúng vào một cái cặp để chuyển sang Đông Bá Linh. Lời khoe khoang này, được xem từ đó là một dữ kiện, mấy năm về sau này đã trở thành một câu định mệnh đối với tôi.
Sự thất đáng tiếc, chưa bao giờ được tiết lộ, là chúng tôi không nhận được những mẩu đối thoại thú vị này phơi bày sự rạn nứt giữa Washington và các đối tác Châu Âu trong những chi tiết bất cẩn như thế. Đây là lý do tại sao : Những lo lắng của chúng tôi về vợ chồng Guillaume bắt đầu từ mùa hè 1973. Ngay sau thời gian ở lại Na Uy, Christel bắt đầu lo sợ mình đã bị theo dõi. Lúc đầu chúng tôi nghi ngờ mối lo âu này. Việc thường xảy đến cho những điệp viên nằm vùng, ngay cả đối với những tay điêu luyện, là họ bắt đầu thấy những con chuột trắng. Trong những trạng huống hoàn toàn bình thường họ bắt đầu tưởng tượng họ bị theo dõi hoặc tất cả hành tung của họ đều bị ghi nhận.
Nhưng sự thật mỗi lúc rõ ràng. Christel nhận biết một trường hợp bị theo dõi trong vườn của một quán ăn Casselruhe tại Bonn, nơi đây cô đôi lúc gặp gỡ người giao liên. Có hai người đàn ông ngồi sát bên cạnh bàn của cô. Một người mở cái cặp sách quay về phía cô và cô thoáng thấy một ống kính quay phim bên trong. Hôm đó chính là ngày Christel gặp giao liên Anita và trao những tài liệu vi phim phát xuất từ Na Uy, may mắn thay việc trao đổi đã hoàn tất trước khi hai người đàn ông đến. Hai người phụ nữ hành động một cách điêu luyện, thản nhiên uống hết ly nước của họ và rời bàn. Khi người giao liên rảo đi trong thành phố với vi phim giấu trong bóp, cô đoan quyết có một người đàn ông đang theo dõi. Cô lấy chuyến xe lửa nội địa đi Cologne, tại đây cô đổi xe tram nhiều lần, lẩn và len lỏi vào đám đông, đúng phương cách một điệp viên đã được đào luyện.
Nhưng cô không làm sao dứt được cái đuôi. Khi cô ta tìm cách vượt xa người đàn ông và rẽ vào một góc để đến gần bờ sông, cô chọn lựa an toàn và vứt cái gói xuống sông. Heinrich Böll đã đề tặng quyển tiểu thuyết mới nhất của ông , « Những Phụ Nữ trong Phong Cảnh Sông Ngòi» cho dòng sông Rhine và tất cả những bí mất nó chuyên chở. Tôi có thể giúp ông với ví dụ điển hình này.
Khi Guillaume bị xử, chánh án biện lý cho rằng những tài liệu Na Uy đã đến tay chúng tôi. Chúng tôi ra lệnh anh không được nói điều gì, những chúng tôi không muốn cho chính quyền Tây Đức bẽ cái lầm là chúng tôi đã gây tác hại tối đa. Đây cũng là vấn đề thể diện của Guillaume. Anh cũng đã chán ngán những lời kết án dài lê thê, nhưng có một điều anh lấy làm an ủi –xem ra anh cũng là một người có tính tự đắc– anh biết anh nổi tiếng thế giới là siêu gián điệp Đức. Với sự đồng ý của chúng tôi, anh tạo dựng nên huyền thoại trong quyển sách của anh là việc trao những tài liệu từ Na Uy là một thành công tuyệt hảo của anh.
Một trong những nhược điểm của chức vụ giám đốc tình báo là không ai tin mình khi mình có nói thật. Nhưng ở đây tôi có thể nói là mọi tìm kiếm về những tài liệu Na Uy của ông Brandt sẽ vô bổ, không phải vì chúng đã bị thiêu hủy năm 1989. Những tài liệu này quá cũ không nằm trong ưu tiên để xé vụn trong lúc hoảng hốt ngày sau khi Bức Tường xụp đổ. Chúng không có ở đó bởi vì ngay cả tôi cũng như bất cứ nhân viên nào của tôi chưa hề đọc qua. Tin tức duy nhất chúng tôi biết được là do những tiết lộ tình cờ của phía Tây Đức trong lúc xét xử Guillaume. Và chúng tương đối ít so với số lượng hồ sơ liên quan nguyên bản.
Phản gián Tây Đức có đủ chứng tích để nghi ngờ những hoạt động của Guillaume vào mùa hè năm 1973. Một nhân viên phản gián đã chú ý đến cái tên Guillaume trong khi anh theo dõi một công tác khác. Anh đã quen thuộc với hình ảnh của Guillaume là bạn với Willy Gronau. Không có sợi giây nào liên kết hai người này với nhau, nhưng cái tên Pháp nổi bật này lúc nào cũng xuất hiện. Đặc biệt nguy hại là sự kiện sĩ quan điều khiển tại bộ tư lệnh của chúng tôi, đã bị bắt cùng lúc với Gronau ở Tây Bá Linh đã không tuân thủ quy tắc sơ đẳng trong công tác tình báo: Y đã cất giữ trong người một miếng giấy nhỏ trong đó y ghi một vài chữ quan trọng để nhớ. Một trong những chữ đó là Guillaume. Y viết chữ này vì y được lệnh yêu cầu Gronau không được tiếp tục liên lạc với Günter, vì chúng tôi thấy hai người quá thân mật.
Tên bất thường của Guillaume đóng một vai trò định mệnh. Nếu anh tên là Meyer hoặc Schultz, tai họa đã sớm xảy đến. Một sự trùng hợp ngẫu nhiên quyết định số phần của anh. Nhân viên phản gián Tây Đức đã ghi nhận sự trùng lập của cái tên Gullaume một hôm ngồi cùng bàn tại nhà ăn của sở với một bạn đồng nghiệp đang theo dõi những tín hiệu vô tuyến không rõ gốc tích. Hai nhân viên này nói về công tác của mình và tình cờ đã phá hỏng sự nghiệp của Guillaume.
Trong thập niên 1950, cơ quan của tôi đã dùng hệ thống giải mã của Xô Viết thời Đệ Nhị Thế Chiến để giữ liên lạc với những điệp viên ở hải ngoại. Mỗi một điện thư bắt đầu bằng một con số để chỉ định một cá nhân riêng biệt đàn ông hay đàn bà. Hệ thống này đã bị các cơ quan Tây phương chọc thủng từ lâu nhờ máy vi tính. Một khi đã biết rõ một con số ám chỉ một người đàn ông hay một người đàn bà đang sinh hoạt, mỗi lần điện đều được ghi lại và đem ra đối chiếu. Những bức điện tín này được ghi chú và cuối cùng giải mã. Mỗi một điệp viên nhận điện tín đều có một hồ sơ riêng. Công việc còn lại của phía bên kia là đặt tên lên những con số của người nhận.
Ngay khi chúng tôi biết được sự việc này, chúng tôi lẽ cố nhiên đổi mã số và phương cách liên lạc. Chúng tôi đặt quy tắc chung là không bao giờ nói đến tên người, địa điểm hoặc các cuộc hội họp trên điện đài vô tuyến. Sau khi chúng tôi đã cho kiếm soát tất cả những điên thư vô tuyến phát đi của chúng tôi, chúng tôi đoan chắc là những điện thư gởi cho Guillaume không để tiết lộ những chỉ dấu về tên tuổi của họ. Than ôi, chúng đã quên phứt đi thông lệ gởi điện chúc mừng sinh nhật, Năm Mới, hoặc những sự kiện trong gia đình. Người Đức rất chi ly đối với những vấn đề này, và đối với các điệp viên điều này nhấn mạnh họ là một phần thân thuộc của gia đình rộng lớn của chúng tôi. Nếu chúng tôi bớt chi ly, có lẽ Guillaume sẽ không bị lộ.
Nhiều điện thư đã được gởi đi năm 1957 cho một điệp viên có tên là G. Một điện thư để chúc mừng G, cái thứ hai cho vợ của G. Điện thư thứ hai ghi « Chúc mừng cho Người Thứ Hai ». Mười sáu năm sau, trong căng-tin tại Cologne, nhân viên điều tra, vẫn chăm chỉ theo dõi những trường hợp chưa được giải quyết về những điện thư đã được chặn bắt và anh suy nghĩ về những lời của anh bạn đồng nghiệp, nhớ lại trường hợp chưa giải quyết của một điệp viên tên G. Điệp viên này hoạt động từ cuối thấp niên 1950, có liên hệ với SPD và có tầm quan trọng để nhận những lời chúc mừng của những chủ nhân ông.
Nhân viên theo dõi điện thư lấy hồ sơ ra và thấy bức điện thư trêu ngươi này. Bức điện mơ hồ nói đến người thứ hai xem ra lạ nhất. Thực ra chúng tôi gởi nó đi vào ngày sinh nhật của Pierre, người con trai đầu tiên và duy nhất của Günter và Christel. Hai nhân viên phản gián suy nghĩ về việc này một thời gian cho đến khi một trong hai người nói rằng điện thư này nói đến ngày sinh của một đứa bé trai. Họ luc lọi trong hồ sơ của các đảng viên SPD trong đó xuất hiện tên tuổi những người đã nằm trong những cuộc điều tra khác. Ở đây, do vụ của Gronau, tên của Guillaume xuất hiện. Tuy vậy, chúng tôi vẫn còn cơ may thoát hiểm. Sau này tôi được biết nhờ Kuron, điêp viên cao cấp nằm vùng trong cơ quan phản gián Tây Đức, là lời đề nghị đầu tiên cho rằng người này là Guillaume bị đội điều nghiên gạt bỏ sang một bên vì Guillaume chỉ cho một con và điện thư cho biết đứa trẻ mới sanh là đứa thư hai. Phải có đầu óc bén nhạy hoặc là một gia trưởng theo lề lối xưa mới biết giải thích người cha theo truyền thống là người đàn ông thứ nhất trong gia đình và đứa con trai đầu lòng là người đàn ông thứ hai.
Giai đoạn kế tiếp là quyết định phương pháp thu thập tang chứng rõ ràng để kết tội Guillaume đồng thời tránh gây thêm thiệt hại cho những quyền lợi của Tây phương. Có hai lựa chọn: Tìm ngay tức khắc những bằng chứng và điều tra nhanh chóng, hoặc để nguyên Guillaume ở vị trí cũ và giám sát những mối liên hệ của anh. Cologne chọn phương thức thứ hai. Để tránh gây sự nghi ngờ của Guillaume, trước tiên họ theo dõi vợ của anh, theo như đúng dự đoán của họ là những mối liên lạc của chồng với Đông Đức phải thông qua bà. Một cuộc trao đổi vật liệu của bà với một người giao liên sẽ cung cấp tang chứng họ còn thiếu sót.
https://server3.kproxy.com/servlet/redirect.srv/slxv/swkfxtbdxkw/p1/images/stories/images/hd_genscher.jpg
Hans-Dietrich Genscher    
https://server3.kproxy.com/servlet/redirect.srv/slxv/swkfxtbdxkw/p1/images/stories/images/klaus_kinkel.jpg
Klaus Kinkel
Cho đến giờ, mọi sự vẫn bình thường. Nhưng những gì xảy ra kế tiếp đã gợi nên nghi vấn không phải tất cả những chính trị gia đều ưa thích đường lối của Brandt. Ngày 29 tháng 5 năm 1973, Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ Hans-Dietrich Genscher được Günter Nollau, giám đốc cơ quan phản gián, thông báo về trường hợp của Guillaume. Trong lời chứng sau này của họ trước ủy ban điều tra của Quốc Hội, hai người đã trình bày hai lời giải thích khác nhau. Genscher và người đổng lý văn phòng Klaus Kinkel – sau này làm giám đốc cơ quan tình báo, Bộ Trưởng Tư Pháp và cuối cùng làm Bộ Trưởng Ngoại Giao sau khi Genscher về hưu – nhấn mạnh là Nollau chỉ nói tình nghi và không hề nói đến những tang chứng mà cơ quan của ông đã thu thạp được trong từng chi tiết. Khi Genscher thông báo cho Brandt về cuộc đối thoại và những đề nghị của cơ quan phản gián có ý lưu giữ Guillaume để giám sát, hình như ông đã trình bày một cách ngẫu nhiên để cho Brandt biết phớt qua và không thèm để ý tới nữa.
Nollau nhấn mạnh cho đến lúc chết là anh đã lên tiếng cảnh báo mạnh mẽ, mặc dù vậy ông vẫn phải chịu khiển trách và từ chức. Những mâu thẫn giữa lời chứng của Bộ Trưởng Nội Vụ và giám đốc cơ quan tình báo tạo nên lời đồn đãi là Genscher đã cố ý giảm thiểu mức độ quan trọng của những thông tin liên quan đến trường hợp của Guillaume và đổ hoàn toàn trách nhiệm lên đầu của Brandt, như sự việc đã xảy ra.
https://server3.kproxy.com/servlet/redirect.srv/slxv/swkfxtbdxkw/p1/images/stories/images/klaus_kinkel_genscher_kissinger.jpg
Klaus Kinkel, Hans-Dietrich Genscher và Henry Kissinger
Những giả thuyết khả dĩ có thể giải thích sự việc là gì? Giả thuyết thứ nhất là Genscher đầy tham vọng, thấy rõ chính quyền Brandt gặp khủng hoảng, đặt tin tưởng vào Đảng Dân Chủ Tự Do của mình, lúc đó nắm giữ cán cân quyền lực trong Quốc Hôi, chuyển sự hổ trợ sang cho Đảng Dân Chủ Thiên Chúa Giáo và đã có những gặp gỡ với Helmut Kohl. Có lẽ, chúng ta giả sử Genscher và Nollau cùng quyết định, vì những lý do chinh đáng, đã ra lệnh không thay đổi gì cả và để sự việc vẫn tiếp tục tiến hành để tìm thêm chứng cớ đối với Guillaume. Trong trường hợp này, Guillaume không thể nào được phép tiếp tục đảm nhận công tác nhạy cảm làm cố vấn cho Thủ Tướng. Nếu tôi là Willy Brandt, sự tức giận của tôi sẽ trực chỉ trước tiên và trên hết nhắm vào Genscher.
Sự kiện rõ rệt là từ khi cơ quan phản gián thông báo cho Gencsher là họ đang theo dõi Guillaume cho đến ngày anh bị bắt, họ không tìm thấy thêm được một tang chứng nào khác với những gì họ đã có. Trong suốt một năm, khoảng thời gian Guillaume vẫn tiếp tục được giao phó những hồ sơ tuyệt mật, những người biết rõ bí mật này chấp nhận có một tay gián điệp sát bên cạnh Thủ Tướng và quản lý những hồ sơ mật của chính quyền mà lý ra họ có bổn phận phải bảo vệ. Trong lúc chúng tôi chắc chắn không muốn nổi lửa , những người khác, trong đó có Genscher và Kinkel, đã bật diêm nổi lửa đốt cháy Brandt và họ cho phép nó cháy quá lâu và quá mức cần thiết.


Genscher có lẽ phải đau khổ che dấu vai trò kém minh bạch của mình khi ông trình trước Quốc Hội sau khi Guillaume bị bắt là cả một hệ thống điệp viên đã bị càn quét. Đây là phương cách duy nhất để biện minh sự chậm trễ trong việc bắt giữ người của chúng tôi. Vì tôi chẳng có lợi lộc gì ở đây, tôi có thể nói là câu chuyện về hệ thống gián điệp chỉ là bịa đặt. Vợ chồng Guillaume là cặp vợ chồng gián điệp đơn độc.

Không có nhận xét nào: