(Ghi theo lời kể của nhạc sĩ Tô Hải)
Cầm điếu thuốc trên tay, nhạc sĩ Tô
Hải với cái nhìn thăm thẳm, chậm rãi tâm sự: “Thời gian qua đi, thế hệ trẻ hình
như ít biết đến những nhạc sĩ có công với sự nghiệp sáng tác âm nhạc trong quân
đội. Trong số họ phải kể đến nhạc sĩ Trần Du, nguyên “Hiệu trưởng” đầu tiên của
Trường VHNT quân đội, trước khi về hưu anh mang quân hàm đại tá…”.
Trần Du vốn là dân Hà Nội, sinh ra
trong một gia đình khá giả. Trước cách mạng, gia đình từng làm chủ một nhà xuất
bản âm nhạc, còn Trần Du được học nhạc và chơi viô-lông rất khá. Kháng chiến
bùng nổ, anh mang theo cây đàn xung phong vào bộ đội, rồi đi khắp các mặt trận.
Trưởng thành trong chiến tranh, anh trở thành một cán bộ chính trị. Hoà bình lập
lại, Trần Du được điều về cơ quan Tổng cục và thường tiếp xúc với các cán bộ
làm công tác văn hóa, văn nghệ. Anh và Phúc Minh đã trăn trở: 9 năm kháng chiến
chống Pháp, bộ đội ta vì phải chiến đấu mà việc học hành bị gián đoạn. Cho dù đã
có nhiều cố gắng nhưng mọi sáng tác của các nhạc sĩ quân đội chỉ là theo bản năng,
thiếu bài bản, tất cả chỉ mới dừng ở hình thức: ca khúc, nếu không học sẽ không
thể tiếp tục sáng tác. Ngược lại suốt thời gian đó, văn nghệ sĩ ở lại trong
thành vẫn được học hành. Nếu không cẩn thận, trình độ của anh em bộ đội sẽ thua
xa họ, không có khả năng phát triển. Các anh mang suy nghĩ này trao đổi với 2
trợ lí Phòng Văn nghệ là nhạc sĩ Lương Ngọc Trác và Vũ Trọng Hối (cả 2 từng phụ
trách các đoàn văn công sư 308 và sư 320). Hai nhạc sĩ đã mạnh dạn trình bày với
thủ trưởng Tổng cục. Thật là vui, cấp trên đã chấp thuận tổ chức lớp sáng tác đầu
tiên trong toàn quân và cho mời các giáo sư giỏi từ Triều Tiên sang dạy.
Việc tổ chức lớp cũng có những chuyện thú vị! Nhạc sĩ Đỗ Nhuận được Tổng
cục giao sử dụng ngôi nhà 13 Lý Nam Đế làm lớp học, ngay sát nhà Cục trưởng Cục
Tuyên huấn Lê Chưởng. Bí thư chi bộ Vũ Trọng Hối kiêm phụ trách lớp. Về nguyên
tắc, học viên về dự phải là các nhạc sĩ từ các đơn vị và có trình độ âm nhạc nhất
định, đã có sáng tác. Thế là nhạc sĩ Tô Hải đang là Trưởng đoàn văn công quân
khu IV được gọi về cùng các nhạc sĩ Trọng Loan (Trưởng đoàn ca múa 31 Văn công TCCT), Văn An (phụ trách Văn
công quân khu Việt Bắc) và Đỗ Nhuận, Lương Ngọc Trác. Nhạc sĩ Văn Chung đang tăng
cường sang Bộ Văn hóa cũng được về học. Biết quân đội tổ chức lớp, Bộ Văn hóa
có công văn sang đề nghị cho các nhạc sĩ bên ngoài cùng dự. Thủ trưởng Tổng cục
đồng ý nhưng chỉ chấp nhận cho số này thỉnh giảng. Các nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương,
Nguyễn Văn Tý, Lưu Cầu, Văn Đông được tham gia nghe giảng nhưng bài tập không được
chấm vì giáo viên phải tập trung thời gian dạy cho cánh lính. Nhạc sĩ Nguyễn
Xuân Khóat đang là Chủ tịch Hội Nhạc sĩ
cũng về dự lớp. Riêng trường hợp của Nguyên Nhung (Nguyễn Văn Nhung) được
cử về khá đặc biệt, ở sư đoàn 325 anh chỉ là trung (hay thượng) sĩ, chưa phải
nhạc sĩ nhưng được cử đi vì trên đánh giá “có nhiều triển vọng”. Ngày tập trung
thật là vui! Anh em vai khoác ba-lô từ các đơn vị, người đi bằng xe lửa, người đi
xe ca xuống bến Hàng Đậu, người đạp xe mang theo giấy giới thiệu qua cổng gác
ba-rie ở đầu đường Lý Nam Đế về số nhà 13. Gặp nhau tay bắt mặt mừng, ai nấy hồ
hởi mang theo cái không khí sôi động của đơn vị về lớp.
Lớp học bắt đầu từ hè năm 1957. Giảng viên chính là các chuyên gia Triều
Tiên: Triệu Đại Nguyên, Mao Vĩnh Nhất từng du học âm nhạc ở Nhật, Pháp. Những năm
kháng chiến, đa số các nhạc sĩ ở ta đều tự học, trình độ về lí luận âm nhạc mới
chỉ là “abc”, khi tiếp thu kiến thức mới, ai cũng ngỡ ngàng. Càng học lại càng
thấy mình dốt. Để học sáng tác, có môn học bắt buộc là đàn pi-a-nô. Các học
viên phải bỏ tiền túi đến tận nhà các pianist Thái Thị Sâm, Lê Liên, Minh Thu để
học. Ngày ấy, các cô giáo còn rất trẻ, nhiều “trò” lần đầu gặp còn cảm thấy ngượng
ngùng. Hai đồng chí Trần Du và Phúc Minh lặn lội đi khắp nơi tìm kiếm đàn mua về
phục vụ lớp sáng tác.
Thời kì “nhân văn”, lớp học tạm dừng 3 tháng để tập trung về Lăng Hoàng
Cao Khải chỉnh huấn. Sau đó lại tiếp tục. Thầy Triệu dạy về “Phân tích tác phẩm
và chỉ huy dàn nhạc”, còn thầy Mao giảng “Hoà thanh và sáng tác”. Sau này có mời
thêm các giáo sư Ba-la-rut-sev (Liên Xô) và Thỉnh Lệ Hồng (Trung Quốc). Có những
ngày phải học đến 18 tiếng, mệt nhưng ai cũng say sưa học. Các thầy tận tình chỉ
bảo, học sinh không dấu dốt. Sau mỗi bài lí thuyết là thực hành sáng tác. Học
viên tập viết các tiểu phẩm với các chủ đề về tình yêu Tổ quốc, xây dựng quê hương,
xây dựng lực lượng vũ trang… Ngày đó, giáo sư Mao Vĩnh Nhất gọi vui đây là “đại
học của đại học” vì chỉ trong 18 tháng mà phải ngốn hết chương trình sáng tác,
hòa thanh, phối khí, phân tích tác phẩm… mà với chương trình này giáo sư đã từng
dạy ở nhiều nước phải mất đến 4 năm(!). Thế mới thấy sự nỗ lực vô bờ của cả thầy
và trò cùng quyết tâm của quân đội.
Cuối năm 1958, kết thúc khóa học, mỗi học viên phải làm báo cáo tốt nghiệp.
Nhạc sĩ Tô Hải với kinh nghiệm của những năm công tác tại quân khu IV cùng những
tháng ngày đưa văn công vác đàn sáo lên biên giới phía tây Tổ quốc biểu diễn
cho sĩ quan, chiến sĩ các đồn biên phòng đã cảm hứng sáng tác giao hưởng hợp xướng
4 chương “Tiếng hát người chiến sĩ biên thuỳ”. Ong viết ròng rã trong 6 tháng.
Khi báo cáo, tác phẩm được các thầy khen và hy vọng có dịp cùng dàn dựng mang
công diễn. Qua lớp học, trình độ các nhạc sĩ được nâng cấp, các tác phẩm đều đồ
sộ hơn và mang tính “hàn lâm”.
Có một kỉ niệm không thể quên với thầy trò của lớp. Trước ngày bế mạc,
không báo trước, Bác Hồ đã “đột kích” đến thăm khi lớp đang tập dàn dựng tác phẩm
của nhạc sĩ Tô Hải trong khu Xưởng phim quân đội (số 17 Lý Nam Đế). Bác đến rất
bất ngờ làm thầy trò ngạc nhiên và cảm động. Sau khi thăm hỏi thầy giáo và học
viên, giáo sư Triệu Đại Nguyên đã cầm đũa chỉ huy dàn hợp xướng hát cho Bác
nghe chương III “Tiếng gọi của quê hương”. Bác đã khen ngợi sự tiến bộ của lớp
và cảm ơn sự giúp đỡ chí tình của các giáo sư.
Đến tháng 3-1959, lớp học bế giảng. Cũng năm đó, quân đội ta vào thời kì
xây dựng lên chính quy hiện đại, các nhạc sĩ của chúng ta được phong quân hàm.
Nhạc sĩ Đỗ Nhuận có quân hàm cao nhất - thiếu tá, sau đó là các đại úy Trần Du,
Trọng Loan; hàm trung uý có Lương Ngọc Trác, Vũ Trọng Hối, Tô Hải, Văn Chung,
thiếu uý Văn An…
Cuối năm 1959, quân đội ta chuẩn bị kỉ niệm 15 năm thành lập. Tác phẩm của
nhạc sĩ Tô Hải được chọn làm tiết mục chính cho đêm biểu diễn. Thế là các thầy
bắt tay vào dàn dựng. Vì Văn công TCCT thiếu quân mà dàn hợp xướng phải huy động
thêm lực lượng của Văn công quân khu Việt Bắc, quân khu Tả ngạn, dàn nhạc giao
hưởng phải bổ sung thêm nhạc công từ Trường Nhạc và cả “ban kèn hơi” của đồng
chí Đinh Ngọc Liên. Đêm 22-12-1959, chương trình chào mừng quân đội được tổ chức
công diễn tại Nhà hát Lớn. Nhưng có một chuyện buồn, chả hiểu sao ban tổ chức lại
quên không có giấy mời cho nhạc sĩ Tô Hải. Thấy lạ, trước giờ biểu diễn, giáo sư
Mao Vĩnh Nhất cùng phiên dịch phóng xe đến 13 Lý Nam Đế tìm đưa ông giấy mời: “Đồng
chí là nhân vật quan trọng đêm nay. Hãy cầm giấy mời của tôi!”. Thật sự cảm động
trước sự quan tâm của người thầy nhưng còn vì quan hệ đối ngoại mà ông đã trả lời:
“Là người lính tôi phải chấp hành mệnh lệnh.” Cuối cùng, buổi công diễn cũng đã
thành công rực rỡ.
Ngay sau đó, thấy việc đào tạo cơ bản về âm nhạc trong quân đội là đúng
hướng, mà Bộ Văn hóa đã quyết định cho thành lập Trường trung cấp Am nhạc do
giáo sư Tạ Phước làm Hiệu trưởng cùng các giáo viên thuở ban đầu là Lê Yên,
Doãn Mẫn, Tô Vũ…
*
Nhạc sĩ Tô Hải trao cho tôi tấm ảnh lớp sáng tác chụp kỷ niệm tại cửa
nhà số 13. Thấm thoắt đã gần nửa thế kỉ trôi qua, nhiều học viên của lớp đã thành
người thiên cổ như các nhạc sĩ Đỗ Nhuận, Nguyễn Văn Thương, Vũ Trọng Hối, Văn
Chung, Nguyễn Xuân Khoát, Văn An; những người còn lại đều đã qua cái tuổi “thất thập cổ
lai hy” nhưng họ vẫn yêu đời, vẫn sáng tác. Những học viên ngày đó là những chiến
sĩ xung kích của nền âm nhạc đích thực và có nhiều đóng góp cho sự nghiệp xây dựng
và phát triển nền âm nhạc cách mạng. Cùng những tác phẩm bất hủ, họ sẽ sống mãi
với non sông.
Chợt nhớ tới một ai đã nói: “Mọi quyền lực và tiền bạc sẽ qua đi, chỉ có giá trị tinh thần của những tác phẩm văn hoá, văn nghệ là sống mãi!”
Chợt nhớ tới một ai đã nói: “Mọi quyền lực và tiền bạc sẽ qua đi, chỉ có giá trị tinh thần của những tác phẩm văn hoá, văn nghệ là sống mãi!”
1 Văn công TCCT ngày đó có 3 đoàn ca múa cùng các đoàn Kịch nói (đ/c Đào Hồng Cẩm phụ trách), Cải lương (đ/c U-Đa) và Chèo (đ/c Cao Kim Điển).
2 nhận xét:
THế hệ cha anh tài thật!
Hồi đó thiếu thốn đủ thứ nhưng mọi người đều dạy thật, học thật, làm thật. Bây giờ có đủ thứ nhưng toàn "học giả", riêng ăn thì là thật.
Đăng nhận xét