Thứ Bảy, 21 tháng 3, 2015

NGƯỜI BẠN CỦA ANH VỢ TÔI (Duy Đảo)

                                                
Biết không  về được trong dịp tết, anh vợ tôi ghé Nha Trang và Sài Gòn sớm, thăm và chúc thọ bố mẹ. Mấy ngày ngắn ngủi gặp nhau, ngoài thời gian dành cho các cụ, trong những câu chuyện lại qua giữa hai anh em, tôi được nghe anh kể về một người bạn của mình, câu chuyện buồn thời hậu chiến.
Năm 1964, gia đình vợ tôi  sơ tán về Bình Giang - một huyện của tỉnh Hải Dương. Huyện lỵ Bình Giang là thị trấn Kẻ Sặt sầm uất. Qua thị trấn vài cây số là phố Phủ, qua Phủ là làng Sồi (thuộc xã Thái Học) - nơi gia đình vợ tôi tá túc từ năm 1964 tới 1973. Chín năm, thời gian dài tới độ hai cô em vợ, sau hơn bốn mươi năm giờ đây giọng nói vẫn đặc sệt giọng làng Sồi.


Xã Thái Học có bốn làng: làng Sồi, làng Vạc, làng Tó, làng Phú Khê.  Xa hơn một chút là làng Bùi và làng Lòn nhưng thuộc địa phận xã khác. Nghe nói ngày xưa tên hai làng tục lắm, chả hiểu tại sao? Sau này các cụ thấy ngượng mồm nên đọc trại đi, chứ nguyên thủy tên làng Bùi, làng Lòn là…
Làng Vạc là quê hương của nhạc sỹ tài hoa Đỗ Nhuận. Vùng quê của nhiều nghề thủ công, nổi tiếng nhất là nghề làm lược Bí. Bây giờ nghề này không còn nữa, tôi dám chắc nếu hỏi bất kỳ một thiếu nữ thế hệ 8X về chiếc lược Bí này thì chỉ nhọc công vô ích.
Ngày ấy, vợ tôi còn nhỏ, thường hay sang nhà bà Huấn - chị ruột nhạc sỹ Đỗ Nhuận,  chơi và làm quản bút gia công giúp bà. Dân làng Sồi nói riêng và cả vùng lân cận cho tới tận làng Bùi, làng Lòn ngày ấy người ta quý cánh sơ tán lắm. Đám sơ tán về làm xôn xao, vui vẻ cái làng quê bé nhỏ vốn yên ả, thanh bình.
Gia đình vợ tôi được xã cấp cho miếng đất gần đường cái quan, có con mương trong vắt chảy qua. Xã giúp rơm, rạ, tre rồi công sức làm nhà cho. Thời gian cả chục năm, ngôi nhà ấy, vùng đất ấy, những con người nơi ấy như quê hương thứ hai của gia đình vợ tôi vậy. Dân nơi đây tốt tới mức trong xóm, trong thôn có gì cũng đều gọi chia phần cho. Từ rơm, rạ, mía, khoai đến cá ở ao làng, có lần được chia cả vịt của hợp tác xã chăn nuôi được.
Gần nhà vợ tôi có nhà cụ phó Thụ. Cụ thông thạo chữ Nho. Gia đình gia giáo nổi tiếng trong vùng, bà con trong làng rất quý trọng gia đình cụ. Anh vợ tôi học với con trai cụ. Hai người chơi với nhau rất thân, anh tên là Trung. Anh Trung học giỏi, đặc biệt là chữ viết rất đẹp và mê vẽ.
Cụ Thụ có hai người con, trên anh Trung là chị Thơ. Chồng chị Thơ là anh Chiến, bộ đội, người cùng làng. Nhà anh Chiến nghèo lắm. Sau đám cưới được mấy ngày thì anh Chiến theo đơn vị vào Nam.
Một buổi sang, anh vợ tôi đi câu vừa về tới nhà thì thấy anh Trung sang chơi. Ngồi chuyện trò, Trung nói: “Tớ sang chào hai bác, chào Huy mai tớ đi bộ đội ”. Quá bất ngờ trước tin của  bạn, mẹ tôi giữ Trung ở lại ăn cơm, tiện có mấy con cá anh tôi vừa câu. Bữa cơm chỉ có vậy nhưng thật cảm động.
Sớm mùa đông năm 1966, anh vợ tôi cùng lũ bạn trong lớp bỏ học kéo nhau lên tận phố Phủ, tiễn bạn tòng quân.  Vài năm sau, anh vợ tôi đi học xa, thỉnh thoảng mới tạt qua nhà. Mỗi lần về đều ghé thăm gia đình cụ Phó và dò hỏi tin tức anh Trung.
Thông tin về người bạn cứ thưa vắng dần. Rồi tới năm 1973, gia đình vợ tôi chuyển hẳn về thị xã Hải Dương.  Khoảng cách, thời gian, nỗi lo cơm áo làm anh tôi quên đi người bạn cũ.
Quãng năm 2000, một buổi sáng anh tôi đi mua gỗ vụn của một cơ sở mộc mỹ nghệ gần ngoại ô thị xã về để nhóm bếp. Đang chổng mông chọn lựa thì có tiếng người phía sau:
- Xin lỗi bác! Em nhìn bác quen quen.
Anh tôi quay lại, trước mặt là người đàn ông khoảng 40 tuổi chững chạc trong bộ đồ sẫm màu, chân giầy đen, khuôn mặt sáng, ánh mắt nheo nheo nhìn như dò hỏi:
-          Bác có phải là bác Huy không?
-          Sao cậu biết tên mình?
-          Bác không nhận ra em à?
-          Mình chịu.
-          Em là Hưng - em họ anh Trung làng Sồi, ngày bác sơ tán ở Bình Giang đây!
-          Thế à? - Ngắm nhìn người đàn ông trước mặt một lúc lâu. Anh vợ tôi mừng rỡ - Mày thay đổi thế này thì bố ai  nhận ra.
Kéo anh tôi vào văn phòng. Sau thủ tục “trà lá”, Hưng mới lần hồi: “Anh Trung em không chết,  bác ạ. Chín năm bom vùi đạn dập, sau giải phóng lò mò về quê. Anh em đi thăm chào hỏi bà con khắp làng rồi hỏi thăm tới bố mẹ và tin tức của bác.  Nhưng em chịu.
Tranh thủ những ngày phép, chị Thơ giới thiệu cô em chồng của mình cho anh Trung. Cũng cánh lính Trường Sơn vừa giải ngũ. Hai người lính, hai người đồng đội sống sót trở về sau chiến tranh, hai người làng, lại gần gũi với nhau, còn gì hơn. Thế là anh Trung cưới vợ. Vợ là cô Nhanh, chả biết bác có còn nhớ không?
Ở nhà hai tháng, anh Trung quay lại Sài Gòn rồi ra quân đi học bổ túc sau đó thi đại học. Đỗ Đại học Mỹ thuật, ra trường được giữ lại làm giáo viên. Một hai năm sau thì về làng đón cô Nhanh vào Sài Gòn đoàn tụ.
Năm 2006, gia đình anh vợ tôi chuyển vào Cà Mau. Cuối năm ấy, anh tôi về Hải Dương làm thủ tục cắt hộ khẩu. Anh tìm tới cơ sở mộc của Hưng để thăm, đồng thời  hỏi tin anh Trung.
Hưng kể: “Sau cái đận gặp bác, năm ấy anh Trung về quê, em có kể lại. Thế rồi  lần nào ra bắc anh ấy cũng đi tìm bác, quần nát cả thị xã Hải Dương mà hai anh em không lần ra”.
Cảm động về tình cảm của người bạn cũ, anh tôi xin địa chỉ của anh Trung trong Sài Gòn. Định bụng một ngày nào đó nhất định sẽ đi tìm bạn.
Rồi cũng chả có điều kiện, vì gia đình anh vợ tôi ở mãi Cà Mau.  Cách đây một năm ngồi buồn thấy địa chỉ bạn trong sổ tay, anh tôi bốc máy gọi. Đầu máy bên kia tiếng một phụ nữ đã luống tuổi, giọng nói vẫn còn ngọng và thô mộc của dân làng Sồi, dù đã pha âm sắc phương nam, nghe cứ như đổ cơm nếp nát vào tai. Anh tôi đoán là tiếng cô Nhanh.
-          Xin lỗi có phải nhà anh Trung không ạ?
-          Vấng! Anh là ai?
-          Tôi là Huy, bạn anh Trung.
-          Anh ấy đi làm chưa về.
   -  Nếu anh Trung về nhờ chị nói hộ là có Huy bạn cũ điện hỏi thăm. Rồi để lại số điện thoại.
Bỏ máy, anh tôi ngồi phịch xuống ghế, cố nhớ lại cái cô Nhanh năm nào. Có phải cô Nhanh là cái con bé đen thủi đen thui, người quắt như mo nang, chỉ được cái tính tình, mồm miệng lanh chanh giống y như cái tên gọi? Chả biết sau này nhớn lên đi bộ đội nhan sắc có khá hơn không ?
Ngay tối hôm đó, anh tôi nhận được điện thoại  của anh Trung. Hai người đàn ông chuyện trò tưởng cháy máy. Nghe chuyện anh, tôi mới biết, chị Thơ đã chia tay chồng từ  lâu.
Sau giải phóng, anh Chiến, chồng chị Thơ, trở về quê. Người vợ thân yêu bao nhiêu năm vò võ đợi chờ, thời gian tàn nhẫn đã giũ sạch nhan sắc, biến một thiếu nữ tràn đầy nhựa sống hừng hực tuổi xuân thành một thiếu phụ xác xơ. Chị khuỵu xuống trong vòng tay anh nước mắt ướt đẫm ngực áo người lính còn thoảng mùi đạn bom.
Thời gian tương phùng chả bao lâu, đơn vị đang đợi anh ở cái thành phố phương nam xa xôi với bao bộn bề sau giải phóng.
Quân hàm trung úy, sau thời gian Quân quản, anh chuyển ngành về làm Trưởng phòng Tổ chức Nhà máy bột giặt mà nhà nước vừa quốc hữu hóa.
Vị trí mới, cuộc sống mới, môi trường mới đã làm cho người lính gốc gác nông dân nghèo kiết xác năm xưa quên hết cội nguồn tình nghĩa. Anh rũ bỏ cuộc tình, rũ bỏ chị Thơ, mải mê chìm đắm trong hạnh phúc mới.
Chị Thơ buồn, hận đời quá đen bạc. Chị tiếc cho những tháng năm đợi chờ mỏi mòn, giận kẻ bạc tình. 
Con cái chưa có, bố mẹ quy tiên cả, chả còn ràng buộc gì nhà chồng, chị xin thoát ly làm chân nhân viên thương nghiệp. Cuộc sống đưa đẩy, chị gặp được người đàn ông thương chị, người đàn ông này để lại cho chị hai đứa con. Rồi cuộc tình cũng chẳng tới đâu.
Sau này về quê, thương chị và cháu, anh Trung đưa cả ba mẹ con vào Sài Gòn, thuê mướn nhà cho ở, cưu mang giúp đỡ chị và cháu. Rồi với sự tần tảo chắt bóp, thời gian khó qua đi, lần hối hai đứa con chị lớn dần học hành thành tài. Giờ cuộc sống mẹ con chị đàng hoàng sung túc.
Về Sài Gòn thăm bố mẹ lần này, anh tôi lần theo địa chỉ tới thăm bạn. Ấn chuông trước cổng căn nhà mặt tiền to tướng với ba bốn tầng lầu gần ngã tư Phú Nhuận. Cánh cổng hé mở.  Trước mặt là một phụ nữ thoạt nhìn biết ngay là gốc gác nông dân chính hiệu nhưng đã được canh tân. Người cao ngẳng thuộc nhóm ”khô chân gân mặt”. Mười đầu ngón chân ngón tay cứ như hạt dưa trong bàn trà ngày tết đã bị nhằn hết nhân, còn lại vỏ dán vào, đỏ chót.
Cô Nhanh của năm nào đây ư? Giọng nói này thì đúng giọng làng Sồi chả trộn được đi đâu. Hình hài cô ta? Anh tôi cố hình dung mà không thể nhận ra. Hay là nhầm.  Nhìn lại số nhà lần nữa, không  thể nhầm được! Chưa kịp mở miệng thì người đàn bà đã tấn công trước.
-  Anh hỏi ai?
-  Tôi là bạn cũ của anh Trung...
Chưa kịp nói hết câu thì người đàn bà trước mặt đã choang choác:
-          Đây không còn là nhà của ông Trung nữa. Muốn gặp xuống Củ Chi mà tìm.
Ngỡ ngàng đến mấy giây, biết có chuyện chẳng lành, nhưng sao lại nhanh thế nhỉ? Anh vợ tôi lẩm bẩm. Cánh cổng vội khép lại.
Giật mình, luống cuống, anh tôi cố nói vọng vào trong: ”Làm ơn cho tôi xin địa chỉ của anh ấy”.
Ít phút sau, một mảnh giấy được nhét qua khe cổng. Anh tôi ngán ngẩm lắc đầu.
Về nhà theo số điện thoại anh tôi nhấn số rồi ngập ngừng. Đầu dây bên kia, giọng một người đàn ông trầm buồn: ”Huy hả? Ông vừa nói là tôi nhận ra tiếng của ông ngay... - Im lặng một, lúc người đàn ông tiếp - Tôi chờ ông đã lâu, nhớ ông. Đã bao nhiêu lần về quê tìm ông mà không gặp, giờ lại tới lượt ông tìm tôi. Hoàn cảnh tôi giờ chán lắm, chả muốn gặp ai.Tôi vừa về hưu. Ly dị vợ rồi ông ạ. Chả có gì to tát, chỉ là do chênh lệch quá về nhận thức và lối sống, mà càng về già càng trở lên căng thẳng.
Nhà để lại cho bà ấy và hai đứa con, tôi về trên này, nơi ngày xưa đóng quân. Có miếng đất, mua ít tầm vông làm mái nhà, sắm cái chõng tre chui ra chui vào. Ngồi vẽ, nuôi con chim con gà cho khuây. Tôi đã tính ra Bắc, về lại cái làng Sồi ngày xưa nơi tôi và ông có nhiều kỷ niệm, nơi ông tiễn tôi đi bộ đội, nơi tôi sống sót trở về. Tôi định về hẳn đấy, chẳng đi đâu nữa. Thế rồi cái duyên cái số thế quái nào lại dính phải cô chủ hiệu tạp hóa trên phố Phủ, bỏ chồng và có hai con. Thế rồi lại bìu ríu nhau quay trở lại nơi này. Cũng chả cưới xin gì ông ạ, cảnh rổ rá cạp lại, gá vào nhau ấy mà.
Thế là hai đứa mình lại đành lỗi hẹn. Xin khất ông vào  một dịp khác vậy...”.
Vậy là đúng 42 năm, hai người đàn ông, hai người bạn sau cuộc chiến cứ ngược xuôi Bắc Nam, Nam Bắc tìm nhau mà chả nhìn thấy mặt. 
     
                                                                                         SG đầu năm 2009.

  

Không có nhận xét nào: