Trích đoạn bài của Phùng Quán
(1932-1995):
Tôi là người viết văn nhưng lại
đặc biệt say mê nghệ thuật kiến trúc...[Ở nhà tôi, ngoài hình ảnh những] Kim tự
tháp, Vạn lý trường thành, Đền Ăngco, Chùa Vàng Miến Điện, Cố cung, Tháp
Eiffel, Khải hoàn môn... tôi có chừng vài chục tấm hình cắt ra từ các báo như
Nhân Dân, Quân Đội, Lao Động, Hà Nội Mới... chụp cảnh Lễ đài Độc lập với tổng
thể Vườn hoa Ba Đình trong ngày Mồng hai tháng năm Một nghìn chín trăm bốn lăm.
Mỗi lần ngắm nhìn cái công trình
kiến trúc mỏng manh được xây dựng bằng gỗ, ván, đinh, vải; được thiết kế và thi
công trong vòng 48 giờ đồng hồ – nếu chậm lại một giờ là hỏng – rồi sau đó biến
mất khỏi mặt đất như một lâu đài trong cổ tích, cặp mắt mờ đục của người lính
già tôi bao giờ cũng cay lệ...
Ai có thể tái tạo công trình kiến
trúc Lễ đài Độc lập cùng với tổng thể kỳ vĩ đó? Không một ai! Kể cả thánh
thần... Theo ngu ý của tôi, lễ đài Độc lập là cái cột mốc giữa đêm dài một trăm
năm nô lệ và bình minh của Độc lập Tự do của cả dân tộc. Kể từ khi trên mặt cỏ
nắng Ba Đình mọc lên cái cột mốc gỗ này, số phận của cả dân tộc thay đổi, và số
phần nhỏ bé, hèn mọn của cả thằng tôi cũng thay đổi...
Vậy ai là tác giả cụ thể công
trình kiến trúc Lễ đài Độc lập?...Cách đây ba năm, tôi được một người bạn tặng
tôi những tư liệu có liên quan đến sự kiện lịch sử mồng 2 tháng 9/1945 anh vừa
tìm thấy trong Thư viện Quốc gia, Thư viện Bảo tàng Lịch sử, Viện Sử học, Viện
Khoa học Xã hội Việt Nam, và kho Lưu trữ Quốc gia. Trong số những bản sao chụp,
có mấy tư liệu tôi đặc biệt chú ý:
“Thư của Bộ tuyên truyền có tiêu
đề VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ đề ngày 31.8.1945 gửi Thị trưởng Hà Nội, về việc
tổ chức Ngày Độc lập (Đây là bản chính được đánh máy bằng giấy than đen trên
giấy trắng, khổ rộng 130 mm x 210 mm, đóng dấu tròn với giòng chữ Ngày Độc lập
và C.P.C.H D.C. vòng quanh con dấu, một ngôi sao năm cánh ở giữa, nổi lên giòng
chữ BAN TỔ CHỨC).
Nội dung thư:
Kính gửi ông Thị trưởng Hà Nội,
Bộ tuyên truyền của Chính phủ Lâm
thời sẽ tổ chức ngày 2.9.1945 một “Ngày Độc lập”.
Muốn cho ngày ấy có một tính cách
thiêng liêng, Ban tổ chức chúng tôi yêu cầu Ngài hạ lệnh cho các chùa chiền,
nhà thờ phải cho mở cửa, quét tước sạch sẽ và đốt trầm hương suốt ngày hôm ấy
để mừng Ngày Độc lập. Kính thư,
Nguyễn Hữu Đang”.
Một thư khác của Ban Tổ chức
“Ngày Độc lập” thuộc Bộ Thông tin và Tuyên truyền, đề ngày 31.8.1945. Hình thức
và con dấu giống như trên. Nội dung thư:
“Kính gửi ông Thị trưởng Hà Nội
Nhân “Ngày Độc lập”, chúng tôi
yêu cầu Ngài cho treo cờ ở vườn hoa Ba Đình và hai bên những phố lân cận. Còn
về lễ chào Quốc kỳ, chúng tôi nhờ Ngài cho sửa soạn cho chúng tôi một chiếc cột
cao 12 thước tây đủ cả giây và bánh xe (poulie); sẽ có chỉ thị về chỗ dựng cột
cho phu toà Thị chính.
Kính thư, Nguyễn Hữu Đang”.
Một bức thư khác, hình thức, tiêu
đề và con dấu giống hai bức thư trên, với nội dung:
“Kính gửi ông Thị trưởng Hà Nội
Muốn cho Ngày Độc lập tổ chức vào
ngày 2.9.1945 tới đây được hoàn hảo, chúng tôi yêu cầu Ngài thông báo ngay cho
các Phố trưởng để các ông ấy báo tin cho các nhà trong khu vực mình biết rằng
Cụ nào trong nam giới hay nữ giới muốn đi dự lễ ấy sẽ đến họp ở Hội quán hội
Khai trí hồi 13 giờ trước khi đi lên vườn hoa sau Sở tài chính.
Kính thư, Nguyễn Hữu Đang”.
Sau khi đọc kỹ những tư liệu
trên, tôi suy luận: ông Nguyễn Hữu Đang là Trưởng ban tổ chức Ngày Độc lập, vậy
chắc ông phải biết ai là tác giả của công trình kiến trúc Lễ đài. Cần phải tìm
gặp ông để hỏi cho ra.
Anh Nguyễn Hữu Đang thì tôi được
biết mặt từ mấy chục năm trước, nhưng rất ít khi được chuyện trò với anh. Mỗi
lần tôi được anh hỏi chuyện, tôi bối rối, sướng mê người, đầu không khiến mà
chân cứ rụt về đúng thành tư thế đứng nghiêm, như ngày còn làm lính trinh sát
mỗi lần được Chính uỷ Sư đoàn hỏi chuyện.
Tôi nghĩ bụng: Tôi là cái thá gì
mà được một người như Nguyễn Hữu Đang hỏi chuyện? Nguyễn Hữu Đang, người tham
gia hoạt động cách mạng từ khi tôi chưa đẻ; nhà hoạt động báo chí công khai của
Đảng cùng thời với Trường Chinh, Trần Huy Liệu; một trong những người tổ chức
và lãnh đạo chủ chốt của Hội Truyền bá Quốc ngữ cùng thời với Phan Thanh, cụ
Nguyễn Văn Tố. Một trong những người sáng lập và tổ chức Hội Văn hoá Cứu quốc
cùng với Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Đình Thi. Và cuối cùng là Trưởng ban Tổ
chức ngày Đại lễ của Đất nước: 2-9-1945.
Gặp điều trắc
trở?
Cách đây khoảng mười lăm năm, anh
từ cao nguyên Hà Giang trở về tá túc tại quê nhà. Hàng năm vào dịp giáp Tết,
lại thấy anh đáo lên Hà Nội trên chiếc xe đạp thiếu nhi Liên Xô (cũ). Anh mang
đến cho mấy bạn cũ mỗi người một cân gạo nếp. Một lần tôi cũng được anh cho một
cân. Tôi cảm động và ngạc nhiên hỏi anh: “Anh kiếm đâu ra gạo nếp mà cho chúng
em thế?”. Anh cười: “ Mình sống ở nông thôn cũng phong lưu ra phết. Không những
có gạo nếp biếu bạn, lại có cả thóc và rơm cho nông dân vay”. “– Hiện nay anh
đang làm gì ở dưới đó? ”. “– Mình nghiên cứu Lão Trang và dịch lại cuốn Lịch sử
Đảng cộng sản Liên xô qua bản tiếng Pháp. Đối chiếu, thấy bản dịch đã in sai
nhiều quá” .
Hai năm trở lại đây không thấy
anh lên Hà Nội nữa. Mấy anh em quen cũ chúng tôi lo lắng hỏi nhau: “ Không biết
anh Đang có gặp phải chuyện gì trắc trở dưới đó?”.
Nỗi lo lắng này thường xuyên ám
ảnh tôi. Nhân thể muốn tìm hiểu về công trình Lễ đài Độc lập, năm đó tôi nhất
quyết phải về quê thăm anh, mặc dầu đã gần giáp tết. Tôi nói khó với vợ: “ Em
bớt cho anh một phần lương hưu tháng này, lấy tiền tàu xe, ăn đường, về Thái
Bình tìm thăm anh Đang...”. “– Nhưng tết nhất đến nơi rồi, chờ ra giêng anh đi
có được không?”.
“– Anh bỗng nhiên thấy nóng ruột
quá... đợi đến ra giêng e chậm mất. Anh Đang đã gần cái tuổi tám mươi, mà lại
một thân một mì nh...” . “– Anh có biết địa chỉ của anh Đang không?”.
“– Anh chỉ biết anh ấy ở Thái
Bình, địa chỉ cụ thể thì không biết”. “– Cả cái tỉnh Thái Bình rộng mênh mông
với hơn hai triệu dân, không có địa chỉ cụ thể làm sao anh tìm được?”.
“– Trời đất! Một người như anh
Nguyễn Hữu Đang thì anh tin rằng về dưới đó hỏi đứa con nít nó cũng biết”. Vợ
tôi đành trao cho tôi một nửa số tiền lương hưu tháng cuối năm vừa lĩnh, với vẻ
mặt nhịn nhẫn của người vợ phải trao cả một nửa sản nghiệp cho chồng tiêu hoang
vào việc không đâu! Tôi nhét vội mấy tờ giấy bạc vào túi, nhảy lên xe đạp, cắm
đầu đạp thẳng ra ga vì sợ vợ thay đổi ý kiến.
Vừa đi tàu, vừa ô-tô, xe đạp...
sáng 26 tết, tôi có mặt ở thị xã Thái Bình. Để đỡ bớt thì giờ tìm kiếm, tôi hỏi
đường đến Sở văn hoá và Hội văn nghệ tỉnh, hỏi địa chỉ của anh. Tôi thực sự
ngạc nhiên khi thấy nhiều anh chị em cán bộ ở hai cơ quan này không biết Nguyễn
Hữu Đang là ai.
Có vài người biết nhưng lại rất
lơ mơ. “Hình như ông ta ở Quỳnh Phụ, Kiến Xương hay Tiền Hải gì đó... ”. Ở Hội
văn nghệ tỉnh, tôi làm quen được với một nhà thơ trẻ. Khi biết rõ ý định của
tôi, anh hăng hái nói: “– Cháu sẽ đưa chú ra cái quán thịt chó nổi tiếng, ở đó
thường có mấy anh cán bộ về hưu, [chắc sẽ hỏi ra”. Đến quán thịt chó, tôi đành
móc] số tiền còm cõi trong túi, gọi một đĩa thịt luộc và hai chén rượu cho phải
phép. Đợi chừng nửa tiếng, có một người đã đứng tuổi để chiếc xe cúp trước cửa,
đi vào quán. Nhà thơ trẻ đứng bật dậy, nói khẽ với tôi: “Ông này ở cơ quan an ninh
tỉnh, hỏi chắc ông biết”.
Tôi vội níu tay anh lại dặn nhỏ:
“– Cậu nhớ đừng giới thiệu mình là ai, sẽ rách việc”. “– Biết rồi, biết rồi,
chú không phải dặn”. Anh bạn trẻ đi đến gặp ông ta, nói cái gì đó, và chỉ tay
về phía tôi. Anh cán bộ an ninh tươi cười bắt tay tôi, ngồi đối diện và niềm nở
hỏi:
“Xin lỗi cụ, năm nay cụ hưởng thọ
được bao nhiêu tuổi ạ? ”. Tôi đoán chắc anh ta thấy tôi ăn vận nhếch nhác – áo
quần bà ba nâu, chân dép lốp – râu tóc bạc trắng, nên hỏi vậy. Tôi liền nói
phứa lên: “– Cảm ơn đồng chí – tôi cười – cũng thất thập cổ lai hi rồi đồng chí
ạ”.
“– Trước cụ có làm công tác ở đâu
không ạ?”. “– Tôi làm thường trực cho một cơ quan thương nghiệp trên Hà Nội...
về hưu đã gần được chục năm rồi”.
“– Cụ là thế nào với ông Nguyễn
Hữu Đang ạ?”. “– Tôi có quen biết gì với ông ta đâu. Thậm chí cũng chưa biết
mặt. Chẳng là ở tổ hưu của tôi có một cụ nghe đâu hồi bí mật cùng hoạt động với
ông ta. Biết tin tôi về thăm đứa cháu họ công tác gíáo viên ở Quỳnh Côi, ông cụ
gửi tôi mười ngàn bạc gửi biếu ông ấy, mà giao hẹn phải đưa tận tay. Tôi tưởng
ông ấy ở thị xã, hỏi loanh quanh mãi không ai biết...”
Anh cán bộ cười: “ Ông ấy đâu có
ở thị xã. Hiện ông ấy đang ở thôn Trà Vỵ, xã Vũ Công, huyện Kiến Xương... cách
đây gần hai chục cây số. Ngược gió này mà cụ đạp xe về tới đó cũng vất vả
đấy...”. Thấy tôi chăm chú lắng nghe, anh cán bộ trở nên cởi mở: “– Nói để cụ
biết, trước kia cái ông Đang ấy cũng là người hoạt động cách mạng có tên
tuổi... Nhưng rồi ông ta giở chứng, làm báo làm văn chống đối Đảng và Nhà nước,
bị xử phạt 15 năm tù ngồi, đưa lên giam trên trại tù Hà Giang. Mãn hạn tù, ông
ta xin về cư trú tại quê quán. Tuy vậy [cách đây mấy năm, ông Đang này tự tiện
đi] sang Nam Định không có giấy đi đường, đến nhà một đối tượng mà công an đang
theo dõi. Công an hai tỉnh liền phối hợp, hỏi giấy tờ đi đường của ông ta, rồi
bắt giam giữ bốn tháng ở nhà lao hai tỉnh để cảnh cáo, và tổ chức khám nhà. Sau
đó thả cho về... ”.
Tôi tỏ ý sợ hãi, gãi đầu gãi tai:
“Chà... biết rắc rối thế này thì tôi chẳng gặp ông ấy nữa... đem tiền về trả
lại thôi...”. Anh cán bộ xuê xoa:
“ Không sao đâu cụ ạ, chính sách
của ta bây giờ là đổi mới tư duy. Nghe đâu ở trên cũng đang sửa soạn cho ông ấy
được hưởng lương hưu. Nếu cụ muốn về thăm ông ấy, cứ việc về. Tôi sẽ chỉ đường
cho cụ”. Anh cán bộ chấm ngón tay vào ly rượu, vẽ lên mặt bàn, chỉ vẽ cho tôi
rất cặn kẽ con đường từ thị xã về chỗ anh Đang tá túc. Tôi đứng lên rối rít cảm
ơn anh...
Con đường đá mười mấy cây số chi
chít ổ gà. Gió cuối đông buốt như kim châm táp thẳng vào mặt. Nhưng vừa đạp xe
tôi vừa nghĩ ngợi miên man về sự thăng trầm của những kiếp người tình nguyện
dấn thân vì nghĩa lớn, nên con đường như cũng bớt xa... Đến chỗ ngã ba rẽ vào
trường phổ thông cấp I, II xã Vũ Công – nơi anh Đang tá túc – tôi vào cái quán
bên đường uống li rượu cho ấm bụng.
Ông cụ chủ quán khi biết tôi từ
Hà Nội về tìm thăm anh Đang, rót rượu tràn li và nói: “– Ông ấy thỉnh thoảng
vẫn ngang qua đấy, tôi đều mời vào uống nước. Ông ấy tằn tiện khét tiếng cái xã
Vũ Công này. Mới cách đây dăm hôm, ông ấy đèo sau xe cái giỏ tre ràng buộc rấ t
kỹ. Ông ấy kể với tôi, tối qua bắt được con rắn gì dữ lắm, phun phè phè, bò vào
nhà. Định làm thịt ăn nhưng tiếc, chở lên huyện bán cho một tay buôn rắn độc,
kiếm lấy mấy nghìn mua mấy lạng mỡ lá...”.
Tôi bật phì cười: “Ông ấy bây giờ
lại thêm cái tài bắt rắn độc, mà mất công đạp xe mini những mười cây số để đổỉ
lấy mấy lạng mỡ lá... Vui thật! Tôi có người bạn làm thơ tên là Tuân Nguyễn,
chết lâu rồi, làm câu thơ, mới nghe thật vô nghĩa, nhưng cứ bất chợt lại hiện ra
trong trí nhớ tôi: Cuộc đời vui quá không buồn được!”. Ông chủ quán rót thêm li
rượu nữa, giọng hào hiệp: “– Li này tôi đãi cụ!... Mà khổ, ông ấy có bán được
đâu. Chiều tối ông ấy đạp xe về phàn nàn: nó không chịu mua, nó bảo loại rắn
này không nằm trong bộ tam xà!”. Tôi cười ngất.
(Còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét