Thứ năm ngày 29 tháng 5 năm 2014 6:22 PM
GS. Trần Ngọc Vương từng có thời gian giảng dạy tại đại học Bắc
Kinh và đang tổ chức nhiều hoạtđộng nghiên cứu và tìm hiểu văn hoá Trung Quốc.
Học giả này đã có cuộc trò chuyện thẳng thắn và cởi mở với Người Đô Thị.
Hiểu về Trung Quốc
Thưa ông,
ngoài việc nghiên cứu, bấy lâu nay giới hàn lâm còn biết ông dịch khá nhiều
sách Trung Quốc sang tiếng Việt. Vì sao ông làm công việc này?
Tôi phải
nói rất rõ ràng rằng mấy chục năm nay, từ sau khi thống nhất đất nước đến giờ,
thế lực duy nhất đe doạ, xâm phạm độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, can
thiệp sâu vào nền chính trị Việt Nam chính là Trung Quốc. Cho nên khi đối kháng
với Trung Quốc cần khẩn trương hiểu biết về họ, cần khẩn trương nghiên cứu, tìm
hiểu và học tập họ nữa. Tôi đang tổ chức dịch những bộ sách hết sức quan trọng
của Trung Quốc về phương diện học thuật, từ lịch sử Phật giáo đến văn học,
những bộ sách về Đạo giáo, Nho giáo Trung Quốc.
Hiện nay
tôi đang tổ chức dịch bộ Quan huấn tập thành (những lời dạy, chỉ dẫn, khuyên
bảo cho tầng lớp quan lại, từ anh mới học việc cho đến tể tướng); trong đó tổng
kết toàn bộ danh tác của Trung Quốc từ xưa đến nay, văn hoá quan trường Trung
Quốc trong 5.000 năm. Bộ sách này rất khổng lồ. Tôi đề nghị một loạt các cơ
quan mà tôi cho là có trách nhiệm của nhà nước, nhưng chẳng đâu muốn làm và
chẳng ai muốn dịch. Hiện nay có một doanh nhân bỏ tiền cá nhân tài trợ cho
người của tôi dịch.
Cuốn thứ
hai tôi cũng đang dịch mang tiêu đề Phản kinh, tức là cẩm nang, bí kíp của
những thủ đoạn chính trị và người ta quảng cáo cuốn sách là: Lịch đại thống trị
giả/ Mật như bất ngôn/ Dụng như bất tuyên bất kỳ thư (tạm dịch: Bộ kỳ thư mà kẻ
thống trị ở tất cả các nơi phải giữ bí mật, làm theo nhưng không nói ra, không
công bố). Bộ sách này được một nhân vật đỗ tiến sĩ đời Đường viết ra, sau đó
tìm cách dâng cho vua rồi trốn biệt, về sau không ai biết ra làm sao. Ngay đến
cái tên của tác giả cũng là điều kỳ bí. Tôi mua bộ sách này lần đầu vào năm
1998, lúc tôi dạy ở đại học Bắc Kinh. Đọc tên tác giả, tôi hơi ngỡ ngàng vì
chưa biết chữ ấy bao giờ. Nghĩ mình người nước ngoài, học tiếng Hán có hạn chế,
ai dè về hỏi các giáo sư Trung Quốc cũng không ai biết. Hai ba hôm sau nữa kỷ
niệm 100 năm đại học Bắc Kinh, gần 10 xe chở các chuyên gia đại học Bắc Kinh ra
đại lễ đường Nhân dân, giáo sư Phó Thành Cật cầm chữ trên tay đi hỏi cũng không
ai biết. Cuối cùng, ông về tra Trung Quốc đại từ điển, ra tên này nằm ở phần đuôi
của từ ghép. Phiên âm Hán Việt phải đọc là Nhuy. Cái tên này còn chưa có trong
thư tịch Việt Nam, chỉ đọc theo nguyên lý thôi. Thật lạ!
Bộ sách
được cất trong kho chứa sách của triều đình, nhưng thi thoảng lại lọt một phần
nào đó ra ngoài nên đời Minh, Thanh đều có chỉ dụ cấm tàng trữ, đọc cuốn sách
đó. Mãi tới năm 1998, lần đầu tiên nó được in ra, mà lại in ở nhà xuất bản Nội
Mông Cổ, theo kiểu in để thăm dò. Nói vậy để biết đó cũng là loại bí kíp kỳ
thư. Kiểu bí kíp ấy, Trung Quốc rất có truyền thống nên tôi muốn giới thiệu để
chúng ta, nhất là giới chính trị, hiểu họ hơn.
Hiểu được
văn hoá chính trị có lẽ sẽ giúp ta bình tĩnh và khôn khéo hơn khi phải sống
cạnh một nước lớn và nhiều chiêu trò như Trung Quốc?
Đọc một
số đoạn, chúng ta sẽ hiểu dần cách Trung Quốc làm chính trị. Vì họ làm đúng
theo bài bản ấy thật. Song các nhà chính trị của ta có vẻ không mấy người quan
tâm. Thủ đoạn của chính trị gia Trung Quốc kinh khủng lắm. Nên nhớ rằng chỉ ở
Trung Quốc, những lợi ích mang màu sắc chính trị mới có thể khiến người ta thực
hiện những hành vi mà trong các hoàn cảnh khác ít ai có thể làm được. Đông Chu
Liệt Quốc còn chép lại câu chuyện: có một anh đầu bếp nấu cho chủ, một ông vua
chư hầu. Có lần ông vua đùa than thở: Cao lương mỹ vị trên đời ăn hết rồi chỉ
còn mỗi một thứ chưa ăn là… thịt người. Hôm sau, anh đầu bếp dâng cho chủ một
món thật thơm, chế biến rất tinh xảo. Tay đầu bếp cứ nhìn xem chủ ăn, gặng hỏi
chúa công ăn ngon không, thấy thế nào. Ông vua bảo: Thấy lạ, cũng ngon đấy. Rồi
hỏi món gì thì đầu bếp quỳ xuống lạy: “Tâu chúa công, thần đắc tội! Hôm qua
chúa công nói còn món thịt người chưa ăn, nay thần cho chúa công ăn thịt người.
Thần không dám giết người ngoài, chỉ giết con của thần để nấu”. Cái đó là gì
vậy? Người Việt Nam có dám làm chuyện đó không? Tôi nghĩ chắc không mấy ai làm
được vì nó quá trái với tự nhiên. Vậy thì một khi họ đã dám làm đến những việc
như vậy thì ta phải đặt ra câu hỏi: có điều gì họ không dám làm không? Hỏi để
nhận ra một điều: nếu chỉ so với lương tri của người bình thường, có khi ta
không đo lường hết được họ.
Trong
cuốn tiểu thuyết viết theo lối khảo cứu, đề xuất luận điểm, có tên Lang Đồ Đằng
(dịch sang tiếng Việt là Tô Tem Sói), tác giả Khương Nhung của Trung Quốc xác
định thuộc tính có tính chất căn tính của người Trung Quốc là sói tính. Sói là
con vật ranh mãnh thủ đoạn, độc ác, thâm hiểm nhất của thảo nguyên, của bình
nguyên và cao nguyên. Người Trung Quốc đặt căn cước của mình khởi đi từ đó. Mấy
năm liền, người Trung Quốc in đi in lại cuốn tiểu thuyết này, cổ vũ “tính chiến
đấu”, tinh thần “quật cường” của đồng bào họ.
“Trung Quốc mộng”
Ông nghĩ
gì về tham vọng “Trung Quốc mộng” (Chinese Dream) mà gần đây đang được đề cập
nhiều?
Người thể
hiện tập trung nhất, cao nhất cái gọi là “Trung Quốc mộng” là Mao Trạch Đông.
Muốn hiểu “Trung Quốc mộng” thì phải hiểu mô hình hoàng đế Trung Hoa.
Nhà cầm
quyền Trung Quốc đang nỗ lực để hiện thực hoá giấc mộng đó. Chúng ta cần tỉnh
táo ở tình huống này: từ thế kỷ 15 - 16 trở lại đây, thậm chí cho đến hết thế
kỷ 20, kinh nghiệm lịch sử cho thấy các cường quốc tư bản chủ nghĩa trở thành
đế quốc chủ nghĩa lớn lên được là nhờ biển. Các đế chế hình thành được trong
thời đại tư bản chủ nghĩa, đế quốc chủ nghĩa đều là đế chế biển. Nhưng truyền
thống của Trung Quốc mấy nghìn năm qua là đế chế lục địa.
Tại sao
gọi Trung Quốc là đế chế lục địa? Từ đời Hán, Trung Quốc bắt đầu đi dần xuống
phía Nam, chiếm những vùng đất sát biển, thế nhưng biển với người Trung Quốc
chưa thành một thứ thế năng sống. Những sản vật biển nhiều khi bình thường, với
họ vẫn là khó khăn, hiếm hoi, và đều xếp vào hàng quý hiếm, đặc sản, trong đó
có muối. Người Trung Quốc bị ám ảnh bởi muối, thậm chí ứng xử với nó bằng quốc
sách. Đời Hán có một cuốn sách cực kỳ nổi tiếng, đó là cuốn Diêm Thiết Luận
(tạm dịch: Bàn về sắt và muối). Cho tới tận thời Quốc Dân đảng, buôn muối là
một nghề mang tính đặc quyền và độc quyền ở Trung Quốc. Người Trung Quốc quản
lý rất chặt môn bài buôn muối, và người buôn muối thường rất giàu. Đối với cư
dân miền núi, vùng sâu của Trung Quốc thì muối trở thành vấn đề lớn. Người ta
buôn muối như buôn thuốc phiện. Trung Quốc đến bây giờ có 9,6 triệu cây số
vuông về mặt diện tích, nhưng chỉ có hơn 18.000 cây số bờ biển, tỉ lệ bờ biển
trên lãnh thổ là thấp nên chưa bao giờ Trung Quốc được xem là một quốc gia biển
cả.
Vậy người
Trung Quốc ý thức về biển tự bao giờ, thưa ông?
Khi người
Trung Quốc đẩy hạt nhân của mình lùi dần xuống phương Nam, tiến sâu thêm xuống
phía nam vùng sông Dương Tử, (từ vùng Giang Nam cũ, bây giờ là Triều Châu, Phúc
Kiến, Thượng Hải, Quảng Châu…). Từ cửa sông Dương Tử mới có lối ra của Trung
Quốc với biển. Đấy là xứ mở ra với biển của nền văn hoá Bách Việt, bộ phận thứ
hai của văn hoá Trung Hoa. Tôi phải nhấn mạnh họ không phải là người Hán, không
có cùng cái vô thức lịch sử với bộ phận cư dân phương Bắc. Thế nên họ thường
xuyên bị coi là khu vực ngoại vi, bị gọi là dân Nam Man, và bị kỳ thị bởi người
Hán. Trong thập đại đế vương (10 bậc đế vương) được ghi danh của Trung Quốc,
chỉ có một người gốc phương Nam là Chu Nguyên Chương, còn lại là người phương
Bắc. Nhà Minh có gắn bó với phương Nam, nên không hề ngẫu nhiên mà trong hơn
nửa thế kỷ đầu của triều đại nhà Minh, tầm nhìn biển bắt đầu được mở ra. Và
chính thời đó mới xuất hiện Trịnh Hoà. Trịnh Hoà là người gốc Hồi giáo Ả Rập,
mang toàn bộ tri thức, kinh nghiệm buôn bán Địa Trung Hải của tổ tiên ông để
phục vụ Minh triều. Khi nhà Minh lập ra Nam Kinh, ông ta là tổng thái giám
(hoạn quan), đề nghị và được chấp nhận đóng những đoàn tàu lớn đi ra biển. Ông
có cả thảy bảy chuyến đi biển và đấy có thể coi là một trong những người sớm
nhất đi vòng quanh thế giới. Tuy nhiên, ông cũng chỉ có khoảng trên dưới 30 năm
thực hiện những công việc đó. Ghi chép về biển của Trung Quốc thời đó chỉ như
vậy. Sau năm 1432 là được cho vào kho. Vài chục năm sau, các vua chúa thế hệ
sau của nhà Minh cũng bị xâm nhập cái tâm thế lục địa Bắc phương hoá, coi lục
địa quan trọng hơn, quay lưng lại với biển, trọng nông.
Không
phải ngẫu nhiên mà ngay sau Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc vừa qua, Tập Cận
Bình đi xuống hạm đội Nam Hải và đứng trên hạm đội này công bố về khát vọng
thực hiện giấc mộng Trung Hoa, cái khát vọng trở thành đế chế biển muộn màng từ
kinh nghiệm cay đắng không theo được với các đế chế biển trước đây. Trung Quốc
bây giờ cảm thấy mình đủ nội lực, cảm thấy mình cần phải trở thành như vậy: một
đế chế biển. Thậm chí giờ tham vọng lớn hơn, đòi chia đôi Thái Bình Dương với
Mỹ chẳng hạn. Rõ ràng cái cách đặt vấn đề vẫn là một thứ chủ nghĩa nước lớn,
coi tất cả các nước khác chỉ là “gia vị” trên bàn đàm phán.
Trong bối
cảnh đó, chúng ta có thoát ra được không, theo ông?
Tôi cho
rằng, bị ràng buộc và lệ thuộc vào Trung Quốc không phải là định mệnh của dân
tộc ta. Vì trong cái vành đai văn hoá Hán truyền thống thì Nhật Bản, Hàn Quốc
có bị thế đâu? Ngay Triều Tiên bây giờ cũng đang vùng vằng thoát ra khỏi Trung
Quốc. Những nước thoát ra được gần như đều trở thành nước công nghiệp lớn.
Việt Nam
từ hàng nghìn năm nay rõ ràng vẫn độc lập với Trung Quốc, và khi bắt đầu có chủ
nghĩa đế quốc, thực dân thì thế giới bị đa cực hoá, do đó việc gắn, trói vào
một cực càng không phải là định mệnh. Tuy nhiên, Trung Quốc thì rõ ràng không
muốn nhìn thấy một Việt Nam mạnh, càng không muốn nhìn thấy một Việt Nam độc
lập hoàn toàn với Trung Quốc mà chỉ muốn Việt Nam lệ thuộc, là chư hầu. Vấn đề
còn lại ở đây là bản lĩnh, thái độ, trách nhiệm của người lãnh đạo với dân tộc.
Chúng ta có làm được điều đấy không? Tôi nghĩ làm được.
Địa chính
trị của ta ở cạnh một nước “lớn mà chơi không đẹp” thì cách ứng xử nên như thế
nào, thưa ông?
Một điều
phải thuộc nằm lòng là chúng ta cần học tập họ và hữu nghị với họ, đấy là những
mệnh đề không thể khác được. Nền văn minh Trung Hoa là một nền văn minh vĩ đại,
rực rỡ, rất nhiều thành tựu. Cha ông ta từng làm học trò của nền văn minh ấy.
Và ngày nay không thiếu phương diện chúng ta vẫn tiếp tục là học trò. Về quan
hệ quốc tế, hai nước có chung một đường biên giới dài như vậy, không muốn hữu
nghị cũng không được. Nhưng mà luôn luôn nhớ rằng đấy là một nước lớn vô trách
nhiệm và cư xử bẩn tính. Cộng sinh với họ rất mệt mỏi nhưng vẫn phải kiên trì
vì đó là điều tất yếu, không thể khác. Chúng ta phải khẩn trương củng cố nội
lực, kiện toàn tư chất, phẩm giá dân tộc… mới có đủ sức mạnh đối đầu cạnh tranh
với họ. Với Trung Quốc, không bao giờ được ảo tưởng, cũng không bao giờ được
mỏi gối chùn chân. Người Trung Quốc buộc ta luôn phải cảnh giác.
Lê Vũ Quý
Linh (thực hiện
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét