Cho dù họ đã lìa trần hay còn sinh sống ở quê nhà, nhưng họ có một điểm chung là đã làm “kiếp tằm nhả tơ” để đem đến cho đời biết bao ca khúc tuyệt vời suốt mấy chục năm qua. Nhưng đàng sau những tác phẩm “để đời” ấy là những quãng đời u tối, nhọc nhằn và phần số vô cùng nghiệt ngã mà ít có ai ngờ tới.
Qua DVD Asia 55 kỳ này, lần đầu tiên chúng ta được nghe và biết chút ít về những nhạc sĩ khá bất hạnh nêu trên, nhưng còn biết bao nhiêu câu chuyện khác về họ mà chúng ta chưa biết và cũng không hề thấy đề cập đến trong những đoạn phim phỏng vấn. Tìm hiểu thêm về cuộc đời của họ, chúng ta lại càng đau xót nhiều hơn cho những kiếp đời mà tạo hóa đã “bắt phong trần, phải phong trần” cho đến mức tang thương cùng tận. Vậy mà số phận của họ vẫn đúng là cái số “con tằm đến thác vẫn còn vương tơ” ?
Xin cùng nhau tìm hiểu thêm nơi đây vài quãng đời bi thương và tiêu biểu của những nhạc sĩ đã xuất hiện trong DVD Asia 55 chủ đề “75 Năm Âm Nhạc Việt Nam, kỳ 2”:
1. Nhạc sĩ Trúc Phương
Tên thật của ông là Nguyễn Thiện Lộc. Ông sanh năm 1939 tại xã Mỹ Hoà, quận Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh (Vĩnh Bình) ở vùng hạ lưu sông Cửu Long, miền Nam Việt Nam. Cha ông là một nhà giáo sống thầm lặng và nghiêm khắc. Nhưng tâm hồn của chàng trai Thiện Lộc thì rất lãng mạn, ...
Yêu thích văn nghệ nên đã tự học nhạc, và bắt đầu sáng tác những bài hát đầu tiên lúc vừa 15 tuổi. Xung quanh nhà ông có trồng rất nhiều tre trúc, nên từ nhỏ ông đã yêu mến những âm thanh kẽo kẹt của tiếng tre va chạm với nhau và sau này đã chọn tên là Trúc Phương để nhớ về thời thơ ấu của ông với những cây tre trúc. Cuối thập niên 1950, ông sinh hoạt văn nghệ với các nghệ sĩ ở ty Thông Tin tỉnh Vĩnh Bình một thời gian ngắn, rồi lên Sài Gòn dạy nhạc và bắt đầu viết nhạc nhiều hơn. Bài hát “Chiều Làng Quê” được ông sáng tác vào thời gian này để nhớ về khung cảnh thanh bình ở làng xóm của ông(do Phương Hoài Tâm, Phương Hồng Quế, Phương Hồng Ngọc trình bày trong Asia 55),một bài khác cũng rất nổi tiếng với giai điệu trong sáng, vui tươi là “Tình Thắm Duyên Quê”.
Không tiền bạc và không một ai thân quen ở đô thành Sài Gòn, ban đầu Trúc Phương ở trọ trong nhà một gia đình giàu có bên Gia Định và dạy nhạc cho cô con gái của chủ nhà. Không bao lâu sau thì cô gái này đã yêu chàng nhạc sĩ nghèo tạm trú trong nhà, vì con tim cô ta đã dần dần rung động trước tài năng của Trúc Phương. Biết được chuyện này, ba mẹ của cô gái bèn đuổi Trúc Phương đi nơi khác. Sau chuyện tình ngang trái này, Trúc Phương càng tự học thêm về âm nhạc và càng sáng tác hăng hơn. Nhưng những bài hát sau này lại nghiêng về chủ đề tình yêu đôi lứa với những nghịch cảnh chia lià.
Trúc Phương sáng tác rất dễ dàng, nhưng với bản tính trầm lặng, bi quan và khép kín sau những cuộc tình dang dỡ, những bài hát sau này của ông thường mang âm điệu u buồn, thê lương như phảng phất nỗi sầu của cổ nhạc miền Nam . Nổi tiếng nhất là “Nửa Đêm Ngoài Phố” với tiếng hát liêu trai Thanh Thúy. Sau đó là “Buồn Trong Kỷ Niệm” với những câu hát đớn đau, buốt nhói tim gan người nghe như “Đường vào tình yêu có trăm lần vui, có vạn lần buồn. Đôi khi nhầm lẫn đánh mất ân tình cũ, có đau chỉ thế, tiếc thương chỉ thế. Khi hai mơ ước không chung lối về …”. Có người cho là bài hát này ông đã viết ra sau khi bị thất tình một cô ca sĩ lừng danh thời đó.
Nhạc của Trúc Phương có một giai điệu rất đặc biệt của riêng ông, mà khó lầm lẫn với người khác được.Nhạc của ông có âm hưởng cổ nhạc miền nam,Nó có vẻ trầm buồn, ray rức, ưu tư trước thời cuộc dạo đó (là chiến tranh triền miên) và buồn phiền vì những mối tình dang dở, trái ngang. Nên khi soạn hòa âm cho những bài hát của Trúc Phương, nhạc sĩ hòa âm phải sử dụng ít nhất là một trong vài loại nhạc khí cổ truyền của miền Nam như đàn bầu, đàn tranh, hay đàn cò (hoặc violon) thì mới có thể diễn tả hết cái hay của giòng nhạc Trúc Phương và người nghe lại càng thấm thía với nỗi muộn phiền, nhức nhối tim gan của ông sau này.
Điều trớ trêu là tuy tên tuổi và tài năng sáng chói, nổi bật so với những người viết nhạc thời bấy giờ, nhưng tình duyên của nhạc sĩ Trúc Phương thì vô cùng lận đận. Khoảng năm 1970, Trúc Phương được một thiếu nữ vô cùng xinh đẹp, cao sang đài các đem lòng yêu thương ông, do sự rung cảm truyền đạt từ tài năng và những tác phẩm tuyệt vời của ông. Kết cuộc là cả hai đã nên duyên chồng vợ. Tuy sống trong cảnh nghèo nàn, nhưng đời sống của họ rất là nghệ sĩ. Đó là những năm tháng hạnh phúc nhất trong cuộc đời của Trúc Phương và sức sáng tạo nghệ thuật của ông càng sung mãn hơn bao giờ hết với hàng chục bài hát ra đời mỗi năm. Nhưng niềm vui của đôi uyên ương này lại không kéo dài được lâu bền. Bởi vì sau một thời gian chung sống với nhau, những tình cảm ban đầu trở nên phai lạt dần theo năm tháng và hai người đã lặng lẽ chia tay nhau. Câu hát ngày nào lại rơi đúng vào trường hợp này “khi hai mơ ước đã không cùng chung hướng về” và “đường vào tình yêu có trăm lần vui, nhưng có vạn lần buồn” ? Giờ thì nhạc sĩ Trúc Phương âm thầm đau khổ trong cô đơn và lại vùi đầu vào men rượu để sáng tác thêm nhiều bài hát trong nỗi đau thương cùng cực, pha chút chán chường cho nhân tình thế thái.
Bạn bè thường gặp ông ngồi yên lặng bên những ly rượu nơi một quán nhỏ ở đường Tô Hiến Thành, quận 10, gần nhà của ông. Có lẽ đó là một cách làm cho nhạc sĩ tạm quên đi những cay đắng của tình đời. Đó cũng chính là lúc bài hát “Thói Đời” được sáng tác với những câu như “Bạn quên ta, tình cũng quên ta, nên chung thân ta giận cuộc đời, soi bóng mình bằng gương vỡ nát, nghe xót xa ngùi lên tròng mắt”… và “Người yêu ta rồi cũng xa ta … “Cỏ ưu tư” buồn phiền lên xám môi …”. Thực ra phải nói là “cỏ tương tư” tức “tương tư thảo” là tên gọi văn hoa của thuốc lá. Khi những người đang yêu nhau, nhớ nhau, hẹn hò nhau thì châm điếu thuốc thả khói mơ màng, nhìn rất thơ mộng và nghệ sĩ [ngó trên tay thuốc lá cháy lụi dần, anh nói khẽ gớm sao mà nhớ thế (Hồ Dzếnh). Nhưng đối với Trúc Phương trong “Thói Đời” thì điếu thuốc lá “cỏ tương tư” lại biến thành ra “cỏ ưu tư” làm cho đôi môi trở nên màu xám xịt qua những nỗi đau thương, nhung nhớ ngập tràn. Những giọt rượu nồng của cõi “trần ai” này lại càng gợi thêm “niềm cay đắng” để cho nỗi ưu tư “in đậm đường trần” và ông đã than thở “mình còn ai đâu để vui ? khi trót sa vũng lầy nhân thế ”?
Trúc Phương năm 1995. |
Nơi an nghỉ của ông. |
Bài hát "Thói Ðời" đã gây xúc động cho hàng triệu con tim cùng chung số phận nghiệt ngã của cuộc đời. Với riêng bản thân Trúc Phương thì “Thói Đời” lại như là một lời tiên tri thật chính xác cho quãng đời còn lại của ông suốt gần 25 năm sau đó (1971-1995).
Sau năm 1975, Trúc Phương ở lại và sống tại Sài Gòn. Sự nghiệp sáng tác nhạc của ông dừng lại, tất cả những ca khúc của ông đều bị cấm phổ biến và trình diễn.. Ông có vượt biên lần đầu năm 1976 nhưng không thành công.Vì vậy ông và gia đình bị mất nhà ở tại số 301 Lý Thường Kiệt,Q.11 Những năm sau đó,ông đã nhiều lần vượt biên,bị bắt lại,và sống không nhà cửa. Không có nghề nghiệp gì trong tay, ông làm đủ mọi việc để sinh sống.Với hai bàn tay trắng, ông trở về quê cũ sống nhờ vả bạn bè, mỗi nơi một thời gian ngắn. Có người hỏi sao ông không về quê ở hẳn với thân nhân, Trúc Phương đã trả lời “Má của tôi thì già yếu đang ở dưới quê Cầu Ngang (Trà Vinh), nhưng bà nghèo quá, lại phải nuôi đám cháu nheo nhóc, không đủ ăn … nên tôi không thể về đó để làm khổ cho bà thêm nữa .”
Ở dưới tỉnh nhà Trà Vinh với bạn bè xưa cũ một thời gian, Trúc Phương lại tìm đường về Sài Gòn. Ban ngày ông làm thuê, làm mướn đủ mọi thứ nghề và lang thang khắp nơi. Buổi tối ông đón xe về xa cảng miền Tây để thuê chiếc chiếu $1 ngả lưng qua đêm, như ông đã trả lời phỏng vấn trong đoạn video clip hiếm hoi mà vô cùng quý giá vào năm 1995. Ông tiếp tục cuộc sống thầm lặng tới năm 1996 thì âm thầm ra đi, để lại cho đời những khúc nhạc buồn như chính cuộc đời ông, phản ảnh nhiều nỗi niềm khắc khoải của đám đông thanh niên thời chiến, những thập niên 1960 - 1970. Ông đã sống qua một thời vàng son của văn nghệ miền Nam.Nhiều trung tâm ca nhạc đã thu thanh, thu hình những bài hát của Trúc Phương ở hải ngoại nhưng chắc chắn là ít có người đã biết tin ông âm thầm từ giã cõi đời trong cảnh nghèo nàn, bi đát và cô đơn trong căn phòng trọ tồi tàn, nhỏ hẹp ở quận 11, Sài Gòn vào ngày 18 tháng 9 năm 1995. Ông được những người quen, lối xóm chôn cất ở nghĩa trang Lái Thiêu. Ra đi trong nghèo túng, đau khổ như thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên ở Mỹ,Nhạc sĩ Trúc Phương đã để lại cho đời nhiều nhạc phẩm nổi tiếng trong kho tàng "nhạc vàng" miền Nam Việt Nam.Trúc Phương có một số lượng sáng tác rất lớn, được biết đến từ những năm cuối thập niên 1950 và được phổ biến nhất trong suốt thập niên 1960 và sau này tại hải ngoại như: Nửa đêm ngoài phố, Buồn trong kỷ niệm, Thói đời, Hai lối mộng, Kẻ ở miền xa...Nhiều nữ ca sĩ thành danh nhờ trình bày những tác phẩm của ông như trường hợp Thanh Thuý. Qua đoạn video clip ngắn ngủi chỉ vỏn vẹn có 2 phút mà thôi nhưng có lẽ đây là lần đầu tiên nhiều người trong chúng ta được thấy hình ảnh sống động và nghe chính giọng nói của nhạc sĩ rất nổi tiếng này tỏ bày tâm sự của ông.
Tác phẩm nổi tiếng :
1.Ai Cho Tôi Tình Yêu 2.Bông Cỏ May 3.Bóng Nhỏ Đường Chiều 4.Buồn Trong Kỷ Niệm 5.Chắp Tay Lạy Người 6.Chiều Cuối Tuần 7.Chiều Làng Em 8.Chín Dòng Sông Hò Hẹn 9.Chuyện Chúng Mình 1 & 2 10.Chuyện Ngày Xưa 11.Con Đường Mang Tên Em 12.Để Trả Lời Một Câu Hỏi 13.Đêm Gác Trọ 14.Đêm Tâm Sự 15.Đò Chiều 16.Đôi Mắt Người Xưa 17.Hai Chuyến Tàu Đêm 18.Hai Lối Mộng 19.24 Giờ Phép 20.Hình Bóng Cũ 21.Kẻ Ở Miền Xa 22.Lời Ca Nữ 23.Mắt Em Buồn 24.Sau Những Lần Gối Mỏi aka Tâm Sự Một Người Đi Xa 25.Mưa Nửa Đêm 26.Người Xa Về Thành Phố 27.Người Xóm Cũ 28.Những Lời Này Cho Anh 29.Nửa Đêm Ngoài Phố 30.Sau Lưng Kỷ Niệm 31.Siết Chặt Bàn Tay 32.Tàu Đêm Năm Cũ 33.Thói Đời 34.Thư Gửi Người Miền Xa aka Viết Thư Tình 35.Tình Đêm Phố Cũ aka Phố Cũ Đêm Về 36.Tình Thắm Duyên Quê 37.Trả Nhau Ngày Tháng Cũ 38.Trên Bốn Vùng Chiến Thuật 39.Tự Tình Trong Đêm 40.Xin Cảm Ơn Đời
1 nhận xét:
Lạ thế? Người tài luôn bị thiệt thòi về cuộc sống chăng?
Đăng nhận xét