Năm 1993, khi làm lễ kỷ niệm đám cưới
vàng sau 50 năm chung sống, được nghe lại bản “Serenade” của Schubert, Bộ trưởng
Đoàn Trọng Truyến đã ôm người vợ hiền của
mình vào lòng, cố giấu đi những giọt nước mắt xúc động. Cái lần đầu tiên kéo
violon để tỏ tình với bà bằng bản “serenade” bất hủ ấy, ông mới 17 tuổi; khi
đám cưới vàng diễn ra, ngồi bên cạnh vợ, ông đã là một ông lão 72, nhưng ông vẫn thấy lòng mình vẹn nguyên cảm xúc như thời
trai trẻ. Với ông, bản “serenade” mà nhờ đó ông đã có được tình yêu của bà, là
bản nhạc định mệnh của cả đời ông – bản nhạc đã đưa ông đến với mọi điều tốt đẹp
nhất mà ông có được trong cuộc đời mình.
Kỳ 1: Chàng thanh niên nghèo trường
Quốc học và mối tình với cô nữ sinh Đồng Khánh
Lời tỏ tình lặng lẽ
Có
nhiều điều mà một nhà báo như tôi có thể nói khi viết về cuộc đời cố GS -NGND.
Đoàn Trọng Truyến, nguyên Bộ trưởng, Tổng Thư ký Hội đồng Bộ trưởng, kiêm Chủ
nhiệm Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng: ông là một nhà khoa học, một nhà chính trị
và là cha đẻ của nguyên Bộ trưởng Văn phòng Chính phủ Đoàn Mạnh Giao… Nhưng
trong bài viết này, tôi chỉ xin được viết về câu chuyện tình của vợ chồng ông –
câu chuyện tình khiến một kẻ hậu thế như tôi sau khi nghe xong vẫn chưa nguôi
được nỗi xúc động.
Bộ
trưởng Đoàn Trọng Truyến sinh năm 1922, trong một gia đình nhà Nho xứ Huế. Nhà
nghèo nhưng thông minh, hiếu học, người thanh niên Đoàn Trọng Truyến là một
trong những học sinh xuất sắc của trường Quốc học Huế. Thấy ông nhà nghèo, nhưng
học hỏi, có chí, kỹ sư cầu đường Nguyễn Văn Kiểm đã mời ông về làm gia sư cho
người cháu gái Nguyễn Thị Kim Sa. Bà Kim Sa vốn là con gái một gia đình khá giả
ở nông thôn. Bà được người chú ruột Nguyễn Văn Kiểm yêu quý, nhận làm con nuôi,
cho ra học tại trường Đồng Khánh.
Ngày
trẻ, Đoàn Trọng Truyến gầy guộc, đen nhẻm và có biệt danh là “Truyến đen”.
Nhưng trí tuệ của ông và nghị lực phi thường của cậu học trò nghèo vượt khó
trong ông đã khiến ông lọt vào mắt xanh cô tiểu thư Nguyễn Thị Kim Sa. Trước ông,
có nhiều chàng trai kiểu “công tử con nhà” đến làm quen với bà. Nhưng bà đều
chê, vì họ giàu nhưng “học dốt”. Chỉ có người “thầy” dạy bà học mỗi tối là khiến
cho cô nữ sinh Đồng Khánh ngày ấy xao xuyến, nhất là khi bà thỉnh thoảng bắt gặp
ánh mắt lạ lùng ông dành cho bà.
Hồi
đó, Đoàn Trọng Truyến đã thầm thương trộm nhớ
cô học trò nhỏ của mình. “Tình trong như đã, mặt ngoài còn e…”, có lần vì
muốn bày tỏ tình cảm, ông đã thu hết can đảm…đá chân bà dưới gầm bàn. Lúc bắt gặp
đôi má ửng hồng của bà, là lúc ông hiểu rằng tình yêu của mình đã được đáp lại.
Ông bà mến nhau giữa cái thời quan niệm lễ giáo phong kiến còn rất ngặt nghèo,
chẳng thể hẹn nhau đi chơi chung, cũng chẳng dám mạnh dạn bày tỏ tình yêu như
trai gái bây giờ. Một buổi tối sau giờ học, ông đã kéo đàn violon cho bà nghe bản
nhạc “Serenade” bất hủ của thiên tài Schubert. Khi chơi bản “Serenade” ấy, ông
chẳng nói một lời nào, nhưng ánh mắt ông nhìn bà khiến bà hiểu tất cả. Bản nhạc
đó là lời tỏ tình chính thức của ông dành cho người con gái trong mộng của
mình. Bản nhạc đó đã giúp Đoàn Trọng Truyến hoàn toàn chinh phục cô tiểu thư
trường Đồng Khánh. Sau bài hát đó, ông bà đã cùng nhau hẹn ước sẽ nên duyên vợ
chồng. Nhưng lời ước hẹn đó, phải đến 5 năm sau
- năm 1943, mới thành hiện thực. Cũng kể từ đó cho đến những năm tháng
sau này, xuyên suốt chặng đường tình yêu suốt 60 năm của ông bà, luôn có dấu ấn
của những giai điệu ngọt ngào trong bản bản “serenade” định mệnh. Sau này, khi
đã nên vợ nên chồng, ông bà đã có một tuần trăng mật đẹp như mơ ở Đà Lạt. Những
ngày trăng mật ấy, ông và bà thường đi dạo quanh hồ Xuân Hương và ngày nào, ở xứ
Đà Lạt thơ mộng đó, bà cũng lặng đi vì xúc động và hạnh phúc khi nghe ông kéo bản
“serenade” đầy kỷ niệm. Bà rất hay kể
cho con cái nghe những kỷ niệm tình yêu của ông bà, mà lần nào kể, ánh mắt bà
cũng đắm say, hạnh phúc, nên 7 người con của ông bà, người nào cũng cảm thấy có
một mối liên hệ kỳ lạ với bản “serenade”
- bản nhạc mà nhờ đó, cha mẹ họ đã nên vợ nên chồng, cùng sinh con đẻ
cái, tạo dựng ra gia đình họ Đoàn sum vầy con cháu như bây giờ.
Gia
đình bà Kim Sa, đặc biệt là cụ Nguyễn Văn Kiểm, tuy giàu có nhưng không bao giờ
khinh người nghèo. Cụ là người đặc biệt quý trọng người tài. Biết cậu học trò
nghèo ham học có tình cảm với cháu gái mình, kỹ sư Nguyễn Văn Kiểm đã hết sức
vun vào cho tình yêu của cháu gái. Sau khi Đoàn Trọng Truyến học xong trường Quốc
học Huế, cụ Nguyễn Văn Kiểm đã bỏ tiền nuôi ông đi học ở trường Nông Lâm Đại học
đường. Trong suốt 5 năm ông đi học, một mình ở lại Huế,
bà vẫn một lòng chờ đợi ông. Những năm tháng học ở Hà Nội, để động viên bà, ông
có gửi về Huế cho bà một bức ảnh của
mình, mặt sau ghi dòng chữ bằng tiếng Pháp: “Hòa nghị lực và ái tình, đó là lý
tưởng cuộc đời chung hai ta muốn tạo lập” – bức ảnh đó bà giữ bên mình cho đến
tận khi về già, thỉnh thoảng lại mang ra khoe với các con các cháu.
Ngày
bà về làm dâu nhà ông, mẹ ông là người hạnh phúc nhất. Cụ hạnh phúc vì có được
một người con dâu hiền thảo, là tiểu thư nhà giàu, nhưng không nề hà chuyện làm
dâu nhà nghèo. Sau này khi kể cho con cái nghe về bà nội, lúc nào bà cũng rưng
rưng cảm động: “Bà nội là người rất tâm lý và hiện đại. Về làm dâu, mẹ chẳng phải
chịu áp lực gì. Bà lo mẹ là con nhà giàu, không chịu được khổ, nên chuyện gì
cũng không cho con dâu làm”. Có được một người mẹ chồng tâm lý, nhưng bà vẫn là
một nàng dâu đảm đang chuyện nữ công gia chánh, vẫn đối nhân xử thế vẹn tròn.
Những món ăn Huế cầu kỳ, những món bánh trái xứ Huế tỉ mẩn, bà đều làm rất
khéo, rất ngon mỗi khi nhà có việc. Mẹ chồng bà không bao giờ nói ra, nhưng
luôn tự hào về cô con dâu khéo léo, biết trên biết dưới.
Cô tiểu thư xứ Huế trên chặng đường
kháng chiến
Khi
còn sống, GS. NGND – cố Bộ trưởng Đoàn Trọng Truyến từng kể rằng người đã giác
ngộ ông, đã đưa ông đến với cách mạng chính là nhà thơ Tố Hữu. Năm 1945, ông
tham gia dành chính quyền ở Huế, và được cử là một trong những Ủy viên Hành
chính Huế ngay từ những ngày đầu tiên. Tháng 12 năm 1946, sau ngày Bác Hồ kêu gọi
Toàn quốc Kháng chiến, ông xin phép cha mẹ đưa vợ con đi sơ tán. Ngày chia tay,
ông bà hẹn với cha mẹ hai bên 2 năm sau
sẽ quay lại, chẳng ngờ rằng sau đó, vì nhiệm vụ cách mạng của ông, mà cuộc chia
ly đó đã trở thành cuộc chia ly dài suốt hai cuộc kháng chiến của dân tộc, dài
đến nỗi, 30 năm sau, khi hai miền Nam – Bắc thống nhất, ông mới có cơ hội đưa vợ
con về thăm quê hương, vái lạy ông bà, tổ tiên.
Ngày
bà theo chồng ra miền Bắc kháng chiến, ngoài người con trai đầu lòng Đoàn Mạnh
Giao, bà còn đang thai nghén người con thứ hai. Là con gái nhà giàu, cả đời
chưa bao giờ biết đến mưa nắng, vất vả, nhưng khi theo chồng đi kháng chiến, bà
đã trải qua đủ khó khăn, vất vả của một người phụ nữ. Sau khi rời Huế ra Quảng
Bình, ông bà tản cư về Nghệ An. Bà chở dạ trên đường tản cư, sinh con trong một
ngôi nhà hoang 4 phía xung quanh đều không có vách. Người con đó sinh trên đất
Hưng Nguyên, được bà đặt tên là Đoàn Mạnh Hưng.
Năm
1949, sau khi bà sinh người con thứ 3 ở Thanh Hóa, ông được lệnh rời khu 4, lên
nhận nhiệm vụ công tác mới ở chiến khu Việt Bắc. Ông đi trước để kịp làm nhiệm
vụ, bà ở lại Thanh Hóa nuôi hai con nhỏ và chờ đến 2 năm sau, khi con cái cứng
cáp, bà mới bồng bế con lên Việt Bắc đoàn tụ với chồng. Có lẽ khi theo chồng từ
Huế ra Bắc theo lời kêu gọi kháng chiến của Bác, bà – cô tiểu thư lá ngọc cành vàng xứ Huế – chẳng
ngờ được chặng đường mình đi sẽ gian khổ như thế. Sau này, mỗi lần kể với các
con về những ngày một nách ba con đi bộ từ Thanh Hóa lên chiến khu Việt Bắc, bà
vẫn ứa nước mắt. Ngày ấy, con trai lớn nhất của bà mới được 6 tuổi, chạy lút
cút sau lưng mẹ. Người con trai thứ 2 – mới 4 tuổi, bà thuê một người gánh. Người
con út chưa tròn 2 tuổi, bà địu sau lưng, phía trước buộc một cái ruột tượng đựng
gạo cho cả mấy mẹ con. Suốt chặng đường ấy, bà vừa địu đứa con nhỏ, vừa chăm lo
hai đứa lớn, vừa lo chạy sao cho kịp đoàn. Giữa đường đi, có lúc vì kiệt sức,
hai mẹ con bà đã rơi xuống sông, nhưng may được người trong đoàn vớt lên kịp. Trên
quãng đường lên chiến khu lần ấy, con trai lớn của bà – Đoàn Mạnh Giao không
may bị căn bệnh sốt rét ác tính, cổ sưng một cục hạch to bằng quá trứng. Bà tuyệt
vọng ôm con trong lòng, vừa bất lực, vừa đau đớn khi thấy con mình đang mỗi lúc
đến gần hơn với thần chết. Bác sĩ Đặng Văn Ngữ - vị bác sĩ nổi tiếng với công
trình nghiên cứu thuốc ký ninh chống sốt rét cũng có mặt trong đoàn. Lúc bấy giờ
Việt Nam chưa có thuốc ký ninh, nhưng may mắn là bác sĩ Đặng Văn Ngữ còn giữ một
chút bột thuốc kháng sinh penicilin mang từ Nhật Bản về. Nhưng ngày ấy, trên đường lên chiến khu, chẳng
lấy đâu ra nước cất để tiêm. Bác sĩ Đặng Văn Ngữ đã lấy nước suối chưng thành nước cất để hòa với bột thuốc
kháng sinh. Có lẽ trời vẫn còn thương gia đình bà. Nhờ bác sĩ Đặng Văn Ngữ có mặt trong lúc nguy
kịch ấy mà con trai bà đã vượt qua cơn hiểm nghèo. Người con ấy sau này trở
thành Bộ trưởng Văn phòng Chính phủ Đoàn Mạnh Giao. Sau khi được bác sĩ
Đặng Văn Ngữ tiêm thuốc, cơn sốt rét ác tính cũng bị xua đi, cục hạch trên cổ
con trai bà cũng dần xẹp xuống. Tử thần đã không thể chạm đến được gia đình bà.
Sau này mỗi lần nhắc lại, bà vẫn nói với con cháu: nhà chúng ta chịu ơn bác sĩ
Đặng Văn Ngữ nhiều lắm. Bởi nếu không có bác sĩ Đặng Văn Ngữ, có lẽ hạnh phúc của
gia đình ông bà bây giờ sẽ không được trọn vẹn; và có lẽ bà cũng không bao giờ
có cơ hội nhìn con trai mình lớn lên, trưởng thành, kế bước cha trở thành một
chính trị gia có tiếng tăm – một người con luôn khiến bà mãn nguyện và tự hào.
Chỉ có thể là tình yêu!
Lên
đến chiến khu Việt Bắc, đoàn tụ với chồng, nhưng bà vẫn phải một mình nuôi con.
Những năm kháng chiến chống Pháp cuộc sống khó khăn, cứ 2 tháng ông mới về nhà
thăm vợ con một lần, một mình bà tăng gia sản xuất, trồng rau, nuôi gà, nuôi lợn…để
lo cái ăn cho cả đàn con nhỏ. Với những người phụ nữ khác, sự hy sinh đó lớn
lao một, thì với bà, sự hy sinh đó đáng được ghi nhận gấp mấy lần. Những người
con của cố Bộ trưởng Đoàn Trọng Truyến và bà Kim Sa vẫn còn giữ hai bức ảnh chụp
bà: một bức ảnh bà chụp khi là nữ sinh Đồng Khánh tiểu thư lá ngọc cành vàng với
tóc thề ngang vai, áo dài tha thướt, ngồi trên chiếc xe tay có người kéo đến
trường mỗi ngày; một bức ảnh bà mặc bộ quần áo bà ba giản dị, tóc búi sau đầu,
đang cuốc đất trong mảnh vườn nhỏ của gia đình ở chiến khu. Chẳng ai dám nói
hai bức ảnh đó cùng chụp một người. Chẳng
điều gì có thể khiến một tiểu thư nhà giàu được yêu chiều có thể trở thành một
người phụ nữ hy sinh tận tụy vì chồng con như thế nếu không phải là vì một tình
yêu mãnh liệt.
Hy
sinh là thế, nhưng bà vẫn có những sở thích con gái rất dễ thương, mà ngày ấy
nhiều người có thể cho là “tiểu tư sản”: theo chồng đi kháng chiến, bà từ bỏ cuộc
sống sung túc, từ bỏ khăn áo lụa là và học trở thành một người vợ, người mẹ
nông dân thực thụ. Chỉ có một thứ bà không bỏ được, đó là nước hoa. Bà thích
dùng nước hoa từ thời thiếu nữ, đến lúc lên chiến khu, ăn mặc có thể úi xùi, có
thể quần nâu áo thâm, nhưng bà vẫn thích sức nước hoa. Bạn bè của ông bà biết sở
thích này của bà, nên mỗi lần đi nước ngoài về, họ đều cố gắng tìm mua tặng bà
một lọ nước hoa nho nhỏ. Vì
cái thói quen khó bỏ đó, mà có một thời gian dài, bà vẫn bị mọi người chê là
quá “tiểu tư sản” .
Ngày
còn con gái, là tiểu thư nhà giàu, dù vẫn được cha mẹ dạy cho đủ nữ công gia
chánh, nhưng bà hầu như chẳng phải động chân động tay vào bất cứ việc gì. Nhưng
sau này, khi đã trở thành vợ và thành mẹ của 7 đứa con, không việc gì bà không
biết làm. Những năm kháng chiến gian khổ, không có điều kiện, có gì ăn đó.
Nhưng sau năm 1954, trở về Hà Nội, cuộc sống đỡ hơn, ngày cuối tuần nào bà cũng
nấu các món ăn Huế cho chồng con, như một cách cả gia đình bà nhắc nhở đến quê
cha, đất mẹ. Chị Thu Hà và Thu Hương – hai người con gái của bà Kim Sa kể với
tôi rằng, bà là người phụ nữ chu đáo hiếm có. Bà chu đáo đến nỗi, từ hồi còn ở
chiến khu đến sau này trở về Hà Nội, bà chưa bao giờ quên sinh nhật của chồng
và 7 đứa con. Các con bà được bà tổ chức sinh nhật từ khi còn bé, dù sinh nhật
ngày ấy, chỉ có vài cái kẹo, vài cái bánh, nhưng những buổi sinh nhật thời chiến
đến giờ vẫn để trong lòng những người con của bà một thứ cảm giác ấm áp, dịu
dàng và đầy biết ơn với người mẹ của mình; với các con bà, những buổi sinh nhật
thời bao cấp ấy hẳn quý giá hơn mọi bữa tiệc sinh nhật linh đình của họ sau
này. Sau này, khi bà Kim Sa bị liệt, phải ngồi xe lăn, kể cả lúc các cháu nội
ngoại đầy đàn, bà vẫn không bao giờ quên sinh nhật của bất cứ ai. Bà luôn chuẩn
bị cho con cháu, dâu rể những món quà nho nhỏ, xinh xinh, như một cách bà thể
hiện tình yêu với mỗi người thân của mình.
Cố
Bộ trưởng Đoàn Trọng Truyến cũng chưa bao giờ có thể chê bất cứ điều gì về sự đảm
đang, chu đáo của vợ. Mỗi lần ông đi công tác, bao giờ bà cũng xếp sẵn quần áo
phẳng phiu cho ông. Bà chuẩn bị cho ông từ cái áo lót, từ đôi tất, đến cái tăm,
vài viên thuốc. Nhờ bàn tay của bà, đi đến đâu ông cũng có thể tìm được mọi thứ
mình cần trong cái vali nhỏ bé. Dù bận công việc nhà nước, bà vẫn thu vén đâu
vào đấy công việc gia đình, chẳng để chồng phải bận tâm lo lắng điều gì. Chính
vì vậy mà lúc sinh thời, Bộ trưởng Đoàn Trọng Truyến có thể rất giỏi về nghiên
cứu khoa học, rất am hiểu các vấn đề chính trị, nhưng chuyện nhà, chuyện tiền
nong, những công việc vụn vặt, không tên hàng ngày, thì ông hoàn toàn phó mặc
cho người vợ hiền của mình. Còn bà thì gánh vác việc gia đình, coi đó như một
thứ hạnh phúc giản dị của người phụ nữ.
60 năm vợ chồng, tình yêu vẫn đẹp
Khi
ngồi nói chuyện với hai người con gái của ông bà, tôi nhận ra trong ánh mắt các
chị tình yêu và sự ngưỡng mộ vô bờ với cha mẹ mình. Hôm tôi đến nhà, các chị
mang lá thư ông viết trước lúc mất ra đọc cho tôi nghe. Lá thư viết lúc còn tỉnh
táo, với những điều giản dị về gốc gác tổ tiên, về những sự kiện chính trong cuộc
đời ông bà, và những lời dặn dò giản dị mà ông dành cho con cái; lá thư gạch gạch,
xóa xóa khắp các trang viết ấy, các chị coi đó là lời di chúc của ông dành cho
7 người con của mình. Hẳn là những người con của ông đã đọc lá thư ấy rất nhiều
lần trong những năm qua, sau khi ông mất, nhưng khi ngồi đọc cho tôi nghe, các
chị vẫn phải đưa qua đưa lại cho nhau đọc thay mỗi khi nghẹn ngào không thể cất
lên lời. Cả hai chị đều bảo với tôi: 7 người con của ông bà, tất cả đều yêu
thương ông bà, ngưỡng mộ ông bà; ngưỡng mộ về cái cách ông bà đã sống, đã yêu
nhau cho đến phút cuối cùng của cuộc đời.
Chị
Thu Hà và Thu Hương kể rằng, khi về già, cha mẹ hai chị vẫn yêu nhau lãng mạn,
say đắm như hồi trẻ. Cả hai ông bà đều là trí thức, yêu thơ ca, âm nhạc. Những
lúc rảnh rỗi, hạnh phúc lớn nhất của họ là ngồi cùng nhau, nghe một bản nhạc, đọc
một bài thơ hay cùng nhau bàn chuyện về một tác phẩm văn học nổi tiếng nào
đó. Hồi còn ở bên nhà 70 Phan Đình Phùng,
chiều nào ông bà cũng khoác tay nhau đi dạo quanh hồ Tây, tình cảm không kém bất
cứ đôi tình nhân trẻ nào. Có những người ngồi quanh hồ nhìn thấy ông bà thường
trêu: “Ông bà dành hết chỗ của con cháu mất rồi”.
Sau này khi bà bị bệnh, phải ngồi xe
lăn cũng là lúc gia đình ông bà chuyển ra sống ở phố Nguyễn Du, chiều chiều ông
vẫn giữ thói quen cùng bà đi dạo. Không còn khoác tay bà như những ngày xưa được
nữa, ông đẩy xe đưa bà đi quanh hồ Thiền Quang, vừa đi vừa kể
chuyện cho bà nghe, để bà vơi bớt nỗi buồn bệnh tật. Có lần vì muốn bà vui, ông
đã có một quyết định ngẫu hứng: đưa bà ra Đồ Sơn tắm biển. Ở bãi biển Đồ Sơn,
ngày nào ông cũng đẩy xe đưa bà đi dọc bờ biển lúc hoàng hôn. Có những khi ông
tắm biển, bà ngồi bình yên trên bãi biển đợi ông, thư thái ngắm nhìn biển cả
mênh mông và hồi tưởng lại cả chặng đường dài của cuộc đời mình.
Thời
ông làm Bộ trưởng, có lần ông đi công tác sang Đức, nơi con trai của ông đang theo học. Hôm đến
khách sạn thăm cha, con trai ông đã rất bất ngờ khi thấy bức ảnh bà được lồng
trong khung ảnh, được ông đặt ngay đầu giường. Chỉ đi công tác một thời gian ngắn,
ông vẫn giữ thói quen mang ảnh bà theo, để
bớt đi cảm giác trống vắng khi xa cách người vợ hiền của mình. Đến hôm
trước khi ông về, ông rủ con trai đi mua quà cho bà. Và lần đó, ông đã khiến cậu
con trai của mình – đang ở tuổi thanh niên yêu đương sôi nổi nhất cũng phải
choáng váng về sự “galant” và cách thể hiện tình yêu rất “thanh niên” của ông:
tiền công tác phí chẳng là bao, nhưng ông vét sạch túi, nhịn ăn nhịn tiêu, để
mua tặng bà một chiếc túi xách tay điệu đà và một cái khăn choàng cổ đắt tiền.
Không người con nào biết món quà đó của ông khiến bà vui đến mức nào, nhưng nhiều
năm sau này, bà vẫn rất nâng niu cái khăn ấy. Mỗi khi đi ra ngoài, đi đám cưới,
bà cũng đều choàng cái khăn đó với ánh mắt đầy hạnh phúc, đầy mãn nguyện và tự
hào của một người phụ nữ đang yêu và đang được yêu. Có thể nói không quá rằng,
đến tận khi về già, có với nhau 7 mặt con, lên chức ông, chức bà, ông bà vẫn
yêu nhau như tình nhân.
Hương Thảo Nguyên
Kỳ 2: “Đám cưới vàng” của một mối
tình vàng
4 nhận xét:
Câu chuyện tình giản dị nhưng tuyệt đẹp của bác Truyến và bác Sa - gia đình rất gần gũi với gia đình tôi - được nhà báo Hương Thảo Nguyên chấp bút cũng rất hay, cảm động.
Xin được giới thiệu, nhà báo này mới 26 tuổi nhưng sắc sảo, yêu quý tư liệu lịch sử, trân trọng quá khứ. Những bạn trẻ như thế được lớp hơi già chúng tôi trân trọng.
Tôi được vinh dự có mặt trong đám cưới vàng của 2 bác ở 71 Nguyễn Du HN và chứng kiến NSUT Dương Minh Đức hát tặng 2 bác Khúc nhạc chiều Serenade. Hai cụ cảm động lắm.
Lần thứ 2 là lần anh Giao, anh Hưng, anh Thanh đưa chúng tôi vào thăm ông lần cuối tại BV Việt-Xô. Cụ đang thở máy. Phòng hồi sức chật, từng thằng vào, nắm lấy tay lạnh ngắt của ông, cũng là những cái nắm tay vĩnh biệt. Riêng Dương Minh Đức vào cuối cùng. Khi ra thấy mắt anh đỏ hoe: "Vừa ghé tai ông hát Serenade. Chả hiểu ông còn cảm nhận được không mà thấy 2 giọt nước mắt tràn nơi khóe mắt".
"Dạ khúc" mà anh Dương Minh Đức ghé tai hát thầm có phải là lần cuối cùng ông cụ được nghe?
Đúng. Sẽ có ở phần 2.
Đăng nhận xét