Thứ Ba, 9 tháng 10, 2012

Nhà trẻ giữa núi rừng Việt Bắc (Đinh Việt Dũng)


Trại Nhi đồng Miền Bắc đã tiếp nhận nuôi dưỡng, giáo dục nhiều anh em Trỗi ở tuổi mẫu giáo, vỡ lòng. Ngày đầu trường đóng quân ở Khe Khao, Việt Bắc. BT5 xin giới thiệu bài viết của 1 trại viên về ngôi trường này. 


        Trong kháng chiến, cuộc sống trên chiến khu của hàng vạn con người thuộc đủ mọi thành phần: bộ đội, cán bộ, nhân viên, các tầng lớp nhân dân (cả người tản cư và bà con địa phương), trong đó có cán bộ, nhân viên trong lực lượng Công an không chỉ có gian khổ, hy sinh; cuộc sống trong kháng chiến vẫn có những sinh hoạt đời thường như tăng gia sản xuất, hoạt động văn hóa - văn nghệ, cưới hỏi… 
Đầu năm 1951, đang công tác ở Sở Công an Liên khu Việt Bắc, tôi được cấp trên cử đi học tại trường Nguyễn Ái Quốc. Tôi nhớ khi đó trường chính trị cao cấp của Đảng đóng ở trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang. Sau gần một năm học tập, đến cuối năm, khóa học của chúng tôi kết thúc và lãnh đạo nhà trường đã đứng ra tổ chức đám cưới tập thể theo kiểu “đời sống mới” cho ba đôi đều là học sinh cùng khóa trong trường. Trong số gần 100 học sinh của trường năm đó, giữa bao nhiêu nam giới thì có ba “bông hoa rừng” cũng là cán bộ đi học, là các cô Đích, Khanh, Chung. Nếp sống và tư tưởng cán bộ kháng chiến hồi đó nghiêm lắm, quá trình học tập, sinh hoạt trong trường chính trị giữ kỷ luật như quân đội. Ăn, ở, học tập đều theo lịch của trường. Chương trình học tập và thảo luận diễn ra cả tuần, đến chủ nhật thì lãnh đạo nhà trường phân công mỗi lớp một việc, lớp thì đi lấy củi, lớp thì tổ chức tăng gia hoặc ra kho của liên khu lấy gạo, muối… Cũng có khi các lớp tổ chức sửa sang lán trại, hay tập văn nghệ. Sinh hoạt “kín lịch” như vậy thì dù có ba “bóng hồng” trong khóa, nhiều anh em chưa lập gia đình cũng chỉ tranh thủ trò chuyện cho vui thôi, chứ không dám đặt vấn đề tìm hiểu. Qua học tập, sinh hoạt, tôi được biết trong ba học viên nữ của trường có cô Trần Thị Đích là cán bộ Hội Liên hiệp phụ nữ Trung ương đi học, quê Nam Định, đồng hương với tôi, nên cũng có cảm tình đặc biệt hơn. Lứa cán bộ chúng tôi khi đó tuổi đời mới trên dưới 30 mà cũng đã rất chững chạc, tất cả cán bộ được cử đi học trường Nguyễn Ái Quốc đều là cán bộ lãnh đạo của các ban, ngành trong bộ máy Chính phủ, hay là cán bộ trong quân đội, công an. Do môi trường công tác và hoàn cảnh kháng chiến khi đó tất cả anh, chị em cán bộ đều thoát ly xa gia đình, nên khi có điều kiện tìm hiểu và tổ chức cưới hỏi đều trông cậy vào tổ chức và anh em bạn bè.
        Quá trình học tập, sinh hoạt, cứ cuối tuần tôi và Đích mới có dịp gặp nhau trò chuyện, rồi dần dần cũng hiểu được tính nết của nhau và hoàn cảnh gia đình hai bên. Đích là con nhà giáo ở thành phố Nam Định, chị cả của ba người em là Trần Thị Tuyết, Trần Viết Thủ (tức Lê Quảng, sau là Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Địa chất Việt Nam), Trần Viết Hiến. Được nuôi, dạy trong một gia đình nhà giáo ở thành phố, nên tuy là con gái, nhưng cô cũng được học hành đến nơi, đến chốn. Học hết bậc trung học ở Nam Định, Trần Thị Đích được gia đình cho lên Hà Nội học ở trường nữ sinh Đồng Khánh (nay là trường phổ thông trung học Trưng Vương). Tốt nghiệp trường Đồng Khánh, do có thành tích học tập tốt, cô nữ sinh thành Nam được nhận học bổng, học tiếp lớp Sư phạm ở trường Bưởi (nay là trường Chu Văn An). Sau khi tốt nghiệp sư phạm, cô giáo trẻ Trần Thị Đích được phân công lên dạy học ở thị xã Cao Bằng. Đến đầu năm 1945, sau hai năm thực hiện nghĩa vụ trên miền núi, cô giáo trẻ được chuyển về dạy tại thành phố quê nhà. Sau Cách mạng tháng Tám, Trần Thị Đích được bà Nguyễn Thị Diệu Hồng giác ngộ và tham gia công tác phụ nữ, được kết nạp vào Đảng tháng 9 năm 1946, trước ngày toàn quốc kháng chiến, là chi hội trưởng Chi hội phụ nữ thành phố Nam Định và là Thành ủy viên. Lên chiến khu Việt Bắc, Trần Thị Đích công tác tại Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
          Đến cuối khóa học, tình cảm giữa tôi và Đích đã rất mặn nồng, chúng tôi quyết định sẽ làm lễ cưới và báo cáo với lãnh đạo nhà trường, các anh rất ủng hộ và bảo với chúng tôi là sẽ kết hợp tổ chức luôn với hai đôi nữa. Thế là dịp cuối mùa đông năm 1951, nhân buổi liên hoan mừng lễ tốt nghiệp, các đồng chí trong ban lãnh đạo trường Nguyễn Ái Quốc đã đứng ra tuyên bố mừng lễ thành hôn của ba đôi học viên. Buổi lễ thành hôn của chúng tôi không có đại diện họ hàng hai bên, không có trầu cau, không tiếng pháp nổ, nhưng tràn đầy niềm hân hoan và hạnh phúc trong tình đồng chí, đồng đội giữa núi rừng Việt Bắc.
          Tuần trăng mật của chúng tôi chỉ kéo dài vỏn vẹn gần một tuần lễ tại “nhà hạnh phúc” là một cái lán đơn sơ do lãnh đạo nhà trường cho mượn. Sau đó tôi trở về công tác tại Nha Công an tại Sơn Dương (Tuyên Quang), Đích về Hội liên hiệp Phụ nữ tại Chợ Đồn, (Bắc Kạn). Thỉnh thoảng, trên đường công tác, tôi lại tranh thủ lên Chợ Đồn thăm vợ. Đến giữa năm 1952, đang công tác tại Nha Công an thì tôi nhận được tin mừng là đã có con trai đầu, nhân một chuyến công tác xuống cơ sở, tôi đạp xe về Chợ Đồn thăm hai mẹ con và chỉ kịp ôm con một lúc rồi lại lên đường. Nhưng niềm vui của chúng tôi cũng không kéo dài, do hoàn cảnh kháng chiến gian khổ, vợ tôi trong quá trình mang thai hay ốm, thiếu thuốc men và ăn uống kham khổ, nên cháu Tuấn khi sinh ra đã rất yếu, sau hơn một năm thì cháu mất. Đến đầu năm 1954 thì vợ chồng tôi sinh cháu trai thứ hai tên là Dũng, khỏe mạnh hơn cháu đầu, do ở tập thể cơ quan, nên vợ tôi cũng được chị em giúp đỡ nhiều. Đặc biệt là chị Điểm thường quan tâm giúp đỡ vợ tôi và chăm sóc cháu Dũng. Cuối năm 1951, khi đó cơ quan Phụ nữ Trung ương đã tổ chức được trại trẻ, nên cháu Dũng và con cái của các cán bộ ở Hội Liên hiệp Phụ nữ được các cô, các bác ở trại trẻ chăm nom chu đáo.
...
(Còn tiếp)

1 nhận xét:

TranKienQuoc nói...

Cảm ơn Viẹt Dũng!