|
Cố GS, BS Đặng Văn Ngữ. |
Mặc dù hiện nay, các nhà
khoa học trên thế giới đã có nhiều nỗ lực, cố gắng để tìm ra vaccine phòng
bệnh sốt rét nhưng chỉ mới còn trong giai đoạn nghiên cứu thực nghiệm. Cố Giáo
sư Bác sĩ Đặng Văn Ngữ là người thầy thuốc đầu tiên của Việt Nam đã hình
thành rất sớm ý tưởng và thực hiện nghiên cứu vaccine chống bệnh sốt rét
nhưng công việc bị gián đoạn do Giáo sư đã hy sinh trong khi làm nhiệm vụ tại
chiến trường miền Nam vào ngày 01/4/1967; công tác nghiên cứu đang còn dang
dở ...
1- Ý tưởng hình thành từ rất sớm.
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng
đã phát biểu trong Đại hội Chiến sĩ thi đua ngành y tế: “Miền Bắc chúng ta có điều kiện và phương tiện nhiều hơn đề nghiên
cứu giải quyết những vấn đề của
miền Nam ...”. Qua lời phát biểu của Cố
Thủ tướng đã làm cho Giáo sư Đặng Văn Ngữ suy nghĩ và nẩy ra một ý nghĩ mới.
Đến lúc này, Giáo sư Ngữ không chờ đợi, mong được đi vào miền Nam mới nghiên
cứu những vấn đề của miền Nam, Giáo sư đã tìm hiểu tình hình và tìm cách giải
quyết các vấn đề về công tác phòng chống sốt rét ở miền Nam.
Như chúng ta đã biết từ
trước đến nay, hai vấn đề chính để chống sốt rét là diệt trùng sốt rét và
chống muỗi. Sau khi tìm hiểu tình hình, ở miền Namthuốc sốt rét tác dụng rất hạn
chế, có rất nhiều đơn vị uống thuốc phòng sốt rét nhưng vẫn bị mắc bệnh sốt
rét. Vấn đề chống muỗi cũng gặp rất nhiều khó khăn như làm thế nào phun thuốc
DDT trong khi bộ đội phải hành quân đêm này qua đêm khác giữa rừng núi; chưa
nói đến việc làm thế nào có DDT đủ để phun, làm thế nào mà treo màn ngủ trong
khi nằm võng treo giữa hai cây và luôn luôn phải sẵn sàng đối phó với máy bay
địch đến. Rõ ràng hai vấn đề trên không dễ giải quyết sốt rét ở miền Nam. Vì vậy, cần tìm ra một biện
pháp khác có hiệu quả và dễ thực hiện hơn.
Tham khảo phương pháp giải
quyết các bệnh khác ở miền Bắc lúc bấy giờ, đối chiếu với phương châm phòng
bệnh của ngành y tế đã thấy biện pháp tích cực nhất có thể giải quyết được
bệnh sốt rét ở miền Nam là tiêm phòng. Qua kết quả tiêm
phòng các vaccine đậu mùa, chống thương hàn, lao ... đã thực hiện ở khắp nơi
trên miền Bắc, tỷ lệ bệnh giảm xuống một cách rõ rệt và nhanh chóng. Nhưng
làm vaccine đối với bệnh sốt rét không phải dễ dàng như đối với các bệnh đậu mùa,
thương hàn, lao ... Các bệnh trên là những bệnh do vi trùng gây nên, vi trùng
sinh sản rất nhanh và rất nhiều trên lưng động vật thí nghiệm hay trong ống
nghiệm nên có nguyên liệu để làm vaccine.
Cách đây hơn 50 năm, các
nhà bác học trên thế giới cũng đã tìm cách nuôi cấy trùng sốt rét trong ống
nghiệm, mục đích cũng để có nguyên liệu làm vaccine tiêm phòng sốt rét. Những
cố gắng này đều bị thất bại vì ký sinh trùng sốt rét chỉ sinh sản nhiều trong
máu người và trong cơ thể muỗi Anopheles. Làm thế nào để nuôi được hàng triệu
con muỗi Anopheles, lại phải cho muỗi hút máu bệnh nhân sốt rét, tiếp tục
nuôi một thời gian nữa cho đến khi ký sinh trùng sốt rét sinh sản và tập
trung vào tuyến nước bọt của muỗi, thật là một vấn đề nan giải ... Nhiều đêm
Giáo sư Ngữ trằn trọc, suy nghĩ và tìm cách giải quyết. Ý tưởng đã hình
thành: phải dựa vào lực lượng quần chúng ở vùng sốt rét, ở rừng núi muỗi
Anopheles không hiếm. Ở đây có tỷ lệ sốt rét cao thì tỷ lệ muỗi mang ký sinh
trùng sốt rét cũng nhiều. Nếu sử dụng lực lượng quần chúng như y tế xã, vệ
sinh viên, học sinh ... để bắt muỗi sẽ giải quyết được nguyên liệu làm
vaccine một cách dễ dàng. Nếu phải vận chuyển muỗi vào phòng thí nghiệm ở cơ
quan trung ương mới làm được vaccine thì sẽ khó khăn. Vậy phải tìm kỹ thuật làm
vaccine thế nào thật đơn giản để có thể làm ở nhiều địa phương.
2- Thực hiện việc nghiên cứu từ ý
tưởng.
|
BS Đặng Văn Ngữ trong phòng thí nghiệm. |
Để nghiên cứu cách làm
vaccine đơn giản và theo dõi tác dụng của nó, tháng 9/1996 Giáo sư Ngữ quyết
định tổ chức một đoàn y, bác sĩ từ Viện Sốt rét Trung ương vào Vĩnh Linh, tại
một xóm mà theo điều tra của Đội Sốt rét ở đấy có nhiều muỗi Anopheles và
nhiều bệnh nhân sốt rét. Đoàn gồm có Giáo sư Ngữ, một số bác sĩ, một nữ y sĩ,
một nam y tá và một lái xe. Vừa đến hôm trước thì hôm sau cả đoàn đã tổ chức
đến địa điểm dự định để bắt muỗi, nhưng đến nơi chỉ thấy những đống tro còn
nóng và cột nhà cháy dở dang bốc khói. Đêm vừa qua, địch đã đến thả bom lửa
và bom bi tại đây. Thế là đoàn phải đổi địa điểm, tìm một nơi bắt muỗi khác
cách xa địa điểm cả 3 cây số. Đoàn phối hợp với Đội Nghiên cứu sốt rét của
Viện đã ở Vĩnh Linh từ đầu năm. Đoàn vừa xây dựng cơ sở, đào hầm trú ẩn, vừa
tìm hiểu tình hình sốt rét ở địa phương.
Đây là một xóm dân mới sơ
tán vào, nhà chưa được phun thuốc diệt côn trùng, muỗi khá nhiều và tỷ lệ
bệnh nhân sốt rét khá cao (30%). Đúng ở đây là một ổ dịch sốt rét đang phát
triển, nếu cứ để như thế mà bắt muỗi làm vaccine nhất định sẽ hoàn thành được
kế hoạch nghiên cứu sốt rét. Nhưng nếu phải giải quyết nhanh chóng ổ dịch bằng
biện pháp phun hóa chất DDT ngay thì sẽ khó bắt được muỗi thí nghiệm. Vấn đề
được đưa ra thảo luận trong đoàn và cả đoàn đều thống nhất là phải phun hóa
chất diệt muỗi, phát thuốc điều trị để giải quyết nhanh chóng ổ dịch với yêu
cầu giải quyết bệnh tật cho nhân dân là hàng đầu mặc dù thực hiện như vậy sẽ
gây khó khăn cho kế hoạch nghiên cứu. Sau khi giải quyết phun thuốc diệt
muỗi, không thể bắt được muỗi trong nhà ban ngày nữa mà phải chuyển sang bắt
muỗi ban đêm ở quanh nhà. Vì vậy phải dùng phương pháp vén ống quần, tay áo
làm mồi cho muỗi đốt máu để bắt. Khi ngồi bắt muỗi, nếu thấy đau nhận biết có
muỗi đốt, bật đèn pin để bắt muỗi vào ống nghiệm. Tháng 9 là tháng máy bay
địch hoạt động mạnh cả ngày lẫn đêm tại khu vực Vĩnh Linh nên nhiều lúc phải chịu
muỗi đốt máu mà không dám bật đèn pin lên để bắt muỗi. Tất cả anh chị em
trong đoàn nghiên cứu đều biết với phương pháp bắt muỗi này sẽ rất dễ bị mắc
bệnh sốt rét dù có uống thuốc phòng hay không, nhưng không ai ngần ngại và
đêm nào cũng hăng hái, phấn khởi để bắt muỗi.
Đến ngày 19/10/1996, đợt
vaccine sốt rét đầu tiên đã hoàn thành. Giáo sư Ngữ tiêm thử 0,1ml trong da
và tiếp tục theo dõi hàng ngày. Sau đó, đến hai cán bộ khác, một nam, một nữ
cũng xung phong tiêm thử. Nữ Y sĩ Lịch chưa bị sốt bao giờ nhưng Anh Sản sốt
hai đợt, được điều trị thuốc sốt rét cho sạch ký sinh trùng trong máu. Một
tuần sau, mọi người lại tiêm vaccine một lần nữa, sau khi theo dõi không thấy
phản ứng sau khi tiêm và biết vaccine không gây sốt. Số vaccine còn lại được
tiêm cho 60 người khác của một đơn vị quân y. Đêm 8/11/1996, bố trí một nữ y
sĩ trong đoàn nghiên cứu khi bắt muỗi, để một con muỗi hút no máu và bắt.
Ngày mai, mổ con muỗi này thấy muỗi có ký sinh trùng sốt rét. Như vậy, sau
khi tiêm vaccine sốt rét, nữ y sĩ này đã được gây nhiễm bệnh một cách tự
nhiên do muỗi đốt. Cũng sáng ngày 9/11/1996, thấy tuyến nước bọt của muỗi có
rất nhiều ký sinh trùng sốt rét, đã lấy và tiêm vào da của Giáo sư Ngữ. Bình
thường nếu bị nhiễm bệnh sốt rét, triệu chứng sẽ xuất hiện sau từ 12 đến 15
ngày nhưng từ ngày ấy đến ngày 10/12/1996, đã hơn một tháng mà chị nữ y sĩ và
Giáo sư Ngữ vẫn không bị sốt. Còn Anh Sản từ ngày được tiêm vaccine cũng
không bị sốt trở lại. Từ việc nghiên cứu đơn giản này, một suy luận rằng có
thể Giáo sư Ngữ và một số anh chị em trong đoàn sau khi tiêm vaccine đã gây
được miễn dịch.
Nhờ đợt công tác thực tế
này ở Vĩnh Linh, Giáo sư Ngữ được trực tiếp tiếp xúc với nhiều người mắc bệnh
sốt rét từ miền Nam ra. Giáo sư đã đề ra được nhiều biện
pháp điều trị bệnh sốt rét trong những trường hợp ký sinh trùng sốt rét kháng
thuốc. Kết quả của các biện pháp ấy đã được áp dụng trong các phác đồ điều
trị sốt rét ở các địa phương.
Và từ đây, những ước muốn
nghiên cứu vaccine chống sốt rét ngay tại thực địa chiến trường miền Nam càng thôi thúc. Giáo sư Ngữ đã ra
sức luyện tập đi bộ, đeo nặng để chuẩn bị đi B. Thời gian đã ủng hộ, Giáo sư
được cấp trên chấp thuận. Vào một ngày đầu xuân năm 1967, Giáo sư đã cùng một
đoàn cán bộ nghiên cứu sốt rét gồm trên một chục người lên đường vào chiến
trường B. Chính ở tại chiến trường B, Giáo sư và cả đoàn đã làm hết sức mình,
vùi đầu để nghiên cứu vaccine chống sốt rét và nhiều đề tài nghiên cứu về
phòng chống bệnh sốt rét khác. Và cũng tại đây, chiến trường B2 thuộc khu vực
Thừa Thiên Huế, ngay chính trên mảnh đất quê hương của mình; Giáo sư Đặng Văn
Ngữ đã ngã xuống, hy sinh như một người chiến sĩ trên chiến trường. Đó là
ngày 1 tháng 4 năm 1967, một ngày đáng ghi nhớ, một ngày buồn và đau thương
của Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Trung ương; Tổ quốc Việt Nam mất đi
một giáo sư giỏi toàn diện, lỗi lạc; mất đi một người thầy đáng kính, một
Giáo sư Viện trưởng xuất sắc. Giáo sư Đặng Văn Ngữ đã cống hiến cả một cuộc
đời cho dân tộc, cho đất nước; đã được Đảng, Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh
hùng lao động. Giáo sư cũng là một trong 12 nhà khoa học y học đầu tiên của
Việt Nam được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh
lần thứ nhất vào năm 1996.
|
1 nhận xét:
Ông là thân phụ của NSND Đặng Nhật Minh. Đúng là cha nào, con nấy.
Đăng nhận xét