Kính thưa: Các quý vị đại biểu
Kính thưa: Các thầy cô giáo Trường
VHQĐ-TSQ Nguyễn Văn Trỗi
-
Các
anh chị, các bạn các khóa từ 1 đến 9
Cùng các bạn khóa 5 trường VHQĐ-TSQ
Nguyễn Văn Trỗi vô cùng yêu mến!
Thay
mặt ban tổ chức xin chân thành cảm ơn quý vị đại biểu, thầy cô giáo cùng các
anh chị và các bạn đã thu xếp thời gian quý báu của mình từ 2 đầu Tổ quốc về đây
tham dự sự kiện “Quảng Ngãi 06/2015” của khóa 5 Trường VHQĐ-TSQ Nguyễn Văn Trỗi
kéo dài từ ngày 10 đến 13/6/2015 với trung tâm là “Gặp mặt thầy trò khóa 5 kỉ
niệm 50 năm nhập trường (1965-2015) và 45 năm ra trường – nhập ngũ (1970-2015)”.
Kính thưa các quý vị,
Thấm
thoắt đúng nửa thế kỉ trôi qua, từ khi chúng tôi - những cậu bé,cô bé 12-13 tuổi,
rời xa gia đình, xa thành phố lớn HN, HP,
Nam Định… khoác ba-lô lên doanh trại của Tiểu đoàn 126 (Trường VHQĐ – Bộ Tổng
tư lệnh) đóng ở Trại Hòe, Hiệp Hòa, Hà Bắc (nay là Bắc Giang).
Cuộc
sống mới lạ với lũ trẻ thành thị được sống trong trại lính bắt đầu… Được biên
chế theo từng tổ tam tam trong từng tiểu đội, trung đội, các khóa bố trí theo đội
hình đại đội… Hết giờ học, nghe tiếng kẻng là xếp hàng đi đều đến nhà ăn… Sau
những buổi chiều tự tu (lại 1 từ mới) là những trận bóng nảy lửa trên sân, sau
đó là thời gian vẫy vùng thỏa chí tang bồng trên con mương thủy lợi bên cống 4
cửa… Cũng thời gian này, chúng tôi được học thêm kiến thức đào giao thông hào,
làm hầm chữ A để tránh bom Mỹ. Đó là những ngày hè nóng bỏng năm 1965.
Giặc
Mỹ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc. Chúng tôi phải tạm rời doanh trại, sơ tán
vào dân cách xa dăm cây số mỗi ngày. Đi từ sáng sớm, chiều tối mới trở về. Những
bài học “dân vận” đầu tiên được học từ đây. Giúp dân quét dọn nhà cửa, chăm sóc
em bé, gặt hái thu hoạch mùa màng… với hình ảnh những cái cối giã gạo, những cối
xay lúa, quạt thóc được nhập vào đầu óc trẻ thơ.
Những
lần báo động có máy bay Mỹ bay qua không làm bọn trẻ con lo sợ. Chúng cả gan đứng
trên miệng hào theo dõi. Cũng vì lí do này mà trong 1 đêm tháng 8/1965, nhà trường
nhận lệnh bí mật hành quân từ Trại Hòe, Trại Cờ lên An Mỹ, Đại Từ, Bắc Thái –
ATK thời gian kháng Pháp. Đoàn xe quân sự bịt bùng, bật đèn gầm, đi theo “con
đường chiến lược” sang đất Thái Nguyên, lên Đại Từ. Sáng hôm sau, hầu hết bọn
trẻ ngỡ ngàng trước cảnh núi rừng hùng vĩ mờ trong sương sớm sau 1 đêm lăn lóc
trên xe.
Ngày
khai giảng 15/10/1965 tại cửa rừng xã An Mỹ, nhà trường của chúng ta chính thức
được mang tên Trường VHQĐ Nguyễn Văn Trỗi, đúng 1 năm sau ngày Anh Trỗi hy
sinh. Đây là mái trường đầu tiên trên miền Bắc XHCN được mang tên Anh.
Lại
sống ở trong dân, lại được dân đùm bọc. Ban đầu ở các xóm Cao Chùa, La Yến, Đồng
Cháy… Sau này, nhờ được QK1 và nhân dân địa phương giúp đỡ dựng lán trại mà có
doanh trại (với nhà ở,lớp học) tươm tất hơn ở cửa rừng, Trại Bưởi, rồi Trại Cờ,
Suối Trì… Chỉ 16 tháng sống ở đây (tới cuối năm 1966) nhưng An Mỹ là địa chỉ khó
quên.
Chiến
tranh chống Mỹ càng ác liệt hơn. Đảng, Bác thống nhất cho trường ta cùng các
trường HSMN Nguyễn Văn Bé, Dân tộc TW và Nhi đồng Võ Thị Sáu sang tá túc ở Quế
Lâm, TQ. Những ngày ngừng bắn từ Noel 1966 đến đầu năm 1967, chúng ta đã có “cuộc
hành quân ngoạn mục” bằng ô-tô từ An Mỹ về HN, rồi bằng tầu hỏa từ HN lên Bằng
Tường, sang TQ, đến Quế Lâm.
Lũ
học sinh chúng ta lại như đàn gà lạc mẹ, ngơ ngác sống xa Tổ quốc. Cuộc sống mới
trong hòa bình nhưng chưa hẳn là thuận lợi với lứa tuổi học sinh đang lớn.
Chúng ta vừa học tập nhưng nghịch ngợm không kém và gây không ít lo lắng cho
bác Quỳnh Chính ủy và các thầy cô.
Dần
dần khó khăn cũng qua đi, chúng ta tích cực tham gia phong trào thi đua “Hướng
về tiền tuyến, thi đua dạy tốt và học tốt” với thành tích
từng được ghi nhận trong FB của em Nguyễn Thị Thái k8: Hôm nọ lục lại được một lá
thư bác Quỳnh ký gửi các bậc phụ huynh và gia đình ngày 22/12/1968. Trong thư
có nói thành tích năm học 67-68 là 98,5% học sinh lên lớp và tốt nghiệp, 52%
khá và giỏi.
Có 18 tháng sống ở Quế Lâm – mảnh đất có phong
cảnh “sơn thủy hữu tình” nhưng lại đúng thời kì Cách mạng Văn hóa nên chúng ta
cũng được chứng kiến cảnh “Thiên hạ đại loạn”. Dân TQ đói khổ, thầy trò TQ bỏ học,
đi làm “cách mạng”. Và nhà trường ta cũng chịu cảnh mất điện, mất nước, không
có gạo ăn... Bọn trẻ con VN ngày đó đã có những chính kiến của mình, bất đồng với
những gì mà Mao Chủ tịch đã làm.
Trong thời gian này, chúng ta cũng đau xót phải
chia tay 2 em Nguyễn Văn Hòa k7, Hoàng Châu Linh k8 và bạn Lưu Thế Dũng của k5.
Mất mát đồng đội, bạn bè đến với bạn Trỗi quá sớm.
Tháng 8/1968, chúng ta được lệnh lên đường về
nước.
Chúng
ta có 2 năm học – lớp 9, lớp 10 ở Hưng Hóa, Phú Thọ (cũng có 1 số bạn “ngoan
quá” được về học tập ở Thạch Thất như Quang Việt, Hoàng Sùng…). Ở miền đất
trung du ấy, chúng ta đã có những trưởng thành hơn. Nhiều bạn được gia nhập
Đoàn, riêng bạn Nguyễn Thế Thịnh được kết nạp Đảng.
Bạn
Nguyễn Thiện Nhân, Nguyễn Thanh Chương từng tham gia Thi học sinh giỏi Toán miền
Bắc tại trường Hùng Vương, Phú Thọ và mang về giải đồng đội.
Chúng
ta cũng có thể tự hào là khóa có nhóm Ngũ hổ phải đi "cải tạo trên C10, là khóa có 4 bạn dũng cảm bí mật xung phong vào Nam chiến
đấu. Đó là Huỳnh Tấn Lợi, Nguyễn Phước Ngọc, Lê Hòa Bình, Nguyễn Trung Nam.
Khóa
5 chúng ta vinh dự được là khóa học sinh được sống ở mái trường thân yêu này từ
khi vừa thành lập (đầu hè 1965) đến khi giải thể (hè 1970). Sau kì thi tốt nghiệp,
chúng ta phải vội vã chia tay nhau. Gần 200 bạn cùng khóa thì ngày đó có 60 bạn
nhập ngũ, thi vào các trường khối quân sự - 30 bạn về Quân y, 30 bạn lên Quân sự.
Nhiều bạn cha mẹ đang chiến đấu trong Nam được cử đi học Tổng hợp, Bách khoa,
Thủy lợi hoặc được đi học ở các nước XHCN.
Hôm
nay, chúng em vô cùng sung sướng được gặp các thầy Ninh Cử Trực, Mai Duy Vọng,
Đỗ Đức Ứng, Phan Trung Chinh, Đỗ Xuân Khoát, Phạm Khang, Lã Khắc Tiệp, chị Phạm Thị Oanh.
Chỉ
sống ở trường 5 năm, nhưng chúng ta xin chân thành cảm ơn thầy cô giáo của nhà
trường đã yêu thương chúng em hơn cả con em mình, đã truyền đạt cho chúng em tất
cả những tri thức cần thiết là hành trang đi vào cuộc sống. Các thầy cô không
chỉ dạy các bộ môn văn hóa mà cả TDTT, cả mỹ thuật (đàn, hát, kịch, thơ văn…),
cả Điều lệnh nội vụ cùng môn quân
sự như: hành quân, mắc tăng võng, bắn súng... để chúng em được phát triển
toàn diện.
Cũng
hôm nay, cũng xin chân thành cảm ơn cha mẹ chúng ta đã dũng cảm giao những đứa
con thơ cho quân đội để giáo dục, rèn luyện. Chừng ấy năm, khi trưởng thành,
chúng con đều là những công dân có ích cho xã hội; và không ít trong chúng con
đã trở thành những sĩ quan, cán bộ trong LLVTND.
Kính thưa các vị khách quý, thầy cô, anh chị và các bạn,
Trải
qua 50 năm, có thể tự hào mà nói rằng: học sinh k5 Trường VHQĐ-TSQ Nguyễn Văn
Trỗi chúng tôi rất trưởng thành.
Trong
số đó có bạn Nguyễn Thiện Nhân được tín nhiệm bầu là Ủy viên BCT BCHTW Đảng, nay
là Chủ tịch MTTQVN. Nhiều bạn có hàm thứ bộ trưởng như Nguyễn Đoan Hùng, Dương
Thành Bắc; có bạn là Tỉnh ủy viên như Huỳnh Tấn Lợi. Trong đó có bạn Nguyễn Duy
Anh là Trung tướng, nguyên Giám đốc BVTWQĐ 108; các thiếu tướng Nguyễn Quang Bắc,
Trần Quốc Việt cùng hàng chục bạn mang hàm đại tám, thượng tá. Hầu hết là kĩ
sư, bác sĩ, sĩ quan QĐ, nhiều bạn là TS, PTS, GS, PGS trong các nhà trường, học
viện, viện nghiên cứu…
Hôm
nay được gặp lại thầy, bạn của 50 năm trước, chúng em không thể quên Đại tá
Chính ủy Bùi Khắc Quỳnh và các cố hiệu trưởng Nguyễn Hữu Điền, Dương Hưng Tuấn
cùng 2 thầy giáo LS Nguyễn Đăng Đạo và Nguyễn Văn Phố, chúng em cũng nhớ mãi các
thầy cô đã ra đi vì tuổi cao sức yếu, bệnh tật.
Hôm
nay đây, chúng em nhớ tới AHLS Nguyễn Văn Trỗi và 28 bạn Trỗi đã anh dũng hy
sinh trong cuộc kháng chiến Chống Mỹ cứu nước và chống quân bành trướng TQ, bảo
vệ biên giới của Tổ quốc.
-
Đó là LS Bùi Hữu Thích (khóa 1).
-
Đó là 3 LS khóa 3: Ngô Ngời, Lê Minh
Tân, Cao Quốc Bảo.
-
Đó là 4 LS khóa 4: Lâm Duy, Vũ Chí Dũng,
Nguyễn Văn Ơn, Nguyễn Văn Ngọc.
-
Đó là 6 LS khóa 6: Chu Tấn Quang, Võ
Nguyên Trọng, Nguyễn Mạnh Minh, Đặng Bá Linh, Nguyễn Tiến Quân, Đỗ Khắc Tiến.
-
Đó là 7 LS khóa 7: Y Hòa, Lại Xuân Lợi, Đặng
Đình Kỳ, Ngô Tất Thắng, Nguyễn Khắc Bình, Trần Hữu Dân, Nguyễn Đức Thảo.
-
Và LS Bùi Thọ Tuyến (khóa 8).
Cùng
với 7 bạn LS là lính Trỗi k5:
- AHLS
Huỳnh Kim Trung, hy sinh ngày 20/8/1972, vừa tròn 20 tuổi, tại Bến phà Sông
Gianh khi đang là học viên Đại học CSND, nhận nhiệm vụ tăng cường giải tỏa giao
thông cho mặt trận.
-
Đó là LS đầu tiên của Trường Trỗi - Nguyễn
Văn Ngọc hy sinh ngày 10/10/1968 tại TP Vinh, khi chỉ còn ít ngày nữa là Mỹ phải
ngừng ném bom hạn chế ra miền Bắc.
-
Đó là LS Phạm Văn Hạo, dám đổi họ tên để
được đi bộ đội, hy sinh ngày 28/6/1971, tại biên giới Campuchia. Gia đình và bạn
Trỗi đã đưa Hạo từ NTLS Long An về quê ở Gia Lộc, Hải Dương.
-
Đó là LS Võ Dũng, con chú Sáu Dân, kiên
quyết xin các thầy cho nghỉ học, về Nam chiến đấu, trả thù cho má và 2 em. Võ
Dũng được phân công làm lính thông tin ở
BTL SG - Gia Định nhưng xin về làm lính trinh sát Khu 9 “cho gần má hơn” và anh
dũng hy sinh ngày 21/4/1972 tại Rạch Giá.
-
Đó là LS Vũ Kiên Cường, mới 19 tuổi trẻ
măng, đã anh dũng hy sinh trên tay bạn Lê Bình, ngày 28/7/1972, ngay tại Dinh Tỉnh
trưởng trong Thành Cổ.
-
Đó là LS Nguyễn Lâm đầy tài hoa, cũng hy
sinh ở Thành cổ, ngày 5/9/1972, nay chưa tìm thấy mộ phần.
-
Đó là LS Trịnh Thúc Doanh, hy sinh mờ
sáng ngày cuối cùng 16/9/1972 của 81 ngày đêm chiếm giữ Thành cổ Quảng Trị.
Doanh ngã xuống ngay bên bờ sông Thạch Hãn, khi được lênh rút quân. Thế mới thấu
hiểu câu thơ của CCB Lê Bá Dương:
“Đò lên Thạch Hãn ơi chèo nhẹ.
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm.
Có tuổi hai mươi thành sóng nước.
Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm”.
Theo thống kê của
bạn Tô Thắng; Khóa 5 chúng ta có 204 bạn. Đến năm nay, đã hy sinh và mất 31 bạn,
chiếm 15% tổng số.
*
Uống nước nhớ nguồn là những gì mà
chúng ta đã học được từ mẹ cha và các thầy cô.
Trường VHQĐ-TSQ Nguyễn Văn Trỗi chỉ
tồn tại 5 năm (1965-1970) nhưng phải thay đổi địa điểm đóng quân đến 4-5 lần. Từ
Trại Hòe, Trại Cờ, Hiệp Hòa (Bắc Giang) lên An Mỹ, Đại Từ, Thái Nguyên rồi sang
nước bạn Quế Lâm, TQ. Địa điểm cuối cùng là Hưng Hóa, Tam Nông, Phú Thọ; Trung
Hà, Ba Vì và Thạch Thất, Sơn Tây.
Nhớ đôi câu thơ của Chế Lan Viên:
Khi ta ở đất chỉ là đất ở
Khi ta đi Đất bỗng hóa tâm hồn
Phát
huy truyền thống “Đi dân nhớ, ở dân thương” của QĐNDVN, lính Trỗi không bao giờ
quên mảnh đất mình từng tá túc, từng được nhân dân che chở, đùm bọc. Hàng năm,
các khóa tự tổ chức những chuyến hành quân về thăm đất cũ, người xưa.
Xin
thông báo với các vị khách quý cùng thầy cô, anh chị và các bạn: Chúng ta đã trồng
cây và đặt được bia lưu niệm ở những nơi từng đóng quân:
-Nhân
26/4/2015, chúng ta đã trồng 2 cây kim giao lấy từ vườn nhà Đại tướng Võ Nguyên
Giáp lên trồng ở xã Mỹ Yên, Đại Từ, Thái Nguyên.
-Ngày
4/3/ 2015, chúng ta đã trồng cây xoài tại Trường Trung cấp Lái xe quân chủng
PKKQ tại Trại Cờ, Hiệp Hòa, Bắc Giang.
-Năm
2014, chúng ta đã đặt bia lưu niệm tại khuôn viên VHTT Trường Trung cấp Công
binh Trung Hà.
-Tháng
10/2007, chúng ta đã trồng cây và đặt bia tại Trường Trung học số 1 Quế Lâm và
Trường Đại học Hàng không vũ trụ Quế Lâm – nơi trường từng tá túc từ tháng
1/1967 đến tháng 8/1968.
*
Nửa
thế kỉ trôi qua, đến hôm nay thật xúc động khi được gặp lại thầy cô và các bạn
cũ. Mong rằng kỉ niệm này sẽ theo chúng em đến tận cùng trời cuối đất.
Thay
mặt ban tổ chức, xin chân thành cảm ơn các bạn Huỳnh Tấn Lợi, Phan Nam và anh
em chiến hữu ở Quảng Ngãi:
-
Sở Công Thương Quảng Ngãi, Cục Hải quan Quảng Ngãi, Cty CP đầu tư XD Thiên Tân,
Cty CP xây lắp điện An Ngãi, Cty đầu tư XD Thuận An, Cty CP đầu tư TM Đại Việt,
Cty CP Bia SG- Quảng Ngãi, Cty CP Đường Quảng Ngãi, UBND huyện Lý Sơn… đã nhiệt
tình giúp đỡ, ủng hộ, tài trợ cho sự kiện được thành công!
Xin
cảm ơn chân thành sự giúp đỡ của Ban giám đốc và tập thể cán bộ, CNV KS Mỹ Trà đã
phục vụ tận tình, chu đáo trong những ngày chúng tôi về sống ở Quảng Ngãi.
Xin
cảm ơn anh chị em các khóa từ 1 đến 9 đã đến chia vui cùng khóa 5.
Xin
cảm ơn các thành viên ban tổ chức đã dành thời gian cho sự kiện này thành công
tốt đẹp.
Xin
cảm ơn bạn Huỳnh Tấn Lợi và các cháu trong gia đình đã nhiệt tình giúp đỡ, hỗ
trợ cà tinh thần và vật chất cho sự kiện này.
Xin
kính chúc quý vị đại biểu, thầy cô, anh chị và các bạn dồi dào sức khỏe, hạnh
phúc bên gia đình, con cháu.
TINH
THẦN TRƯỜNG NGUYỄN VĂN TRỖI MUÔN NĂM!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét