Thứ Bảy, 27 tháng 4, 2013

TRẦN THÁI TÔNG VÀ BÀI THƠ VÔ ĐỀ (ST: Trần Quốc Việt)


Cuốn Đại Việt Sử kí do Vua Trần Thánh Tông giao cho bảng nhãn Lê Văn Hưu viết từ nhà Triệu đến nhà Lý là cuốn Chính sử đầu tiên của Đại  Việt; khi hoàn thánh, Lê Văn Hưu được Thánh tông ban khen: Viết về lịch sử oai hùng của Dân tộc ta như thế là được.

Cuốn sử ấy đã bị quân xâm lược nhà  Minh mang về Trung Quốc, các nhà viết sử đời sau thường nói đến cuốn Đại Việt Sử kí toàn thư của Ngô Sĩ Liên viết vào đời Lê và Đại Nam thực lục cúa nhà Nguyễn với quan niệm lịch sử nhiều nghiêng lệch.

Nhiều người đọc Đông Chu liệt quốc, Tam Quốc Diễn Nghĩa ... đó là các cuốn tiểu thuyết lịch sử được viết vào đời Thanh mạt.

Nhà Trần được nhà Lý truyền ngôi là điều không phải bàn cãi, nhưng như thế nào lại là việc khác.

Triều Lý đã cơ bản xây dựng bộ máy hành chính, dưới vua là Tam Thái và Tam Thiếu, dưới là Tể tướng, Dưới Tể Tướng là Lục Bộ, Hàn Lâm Viện và Ngự Sử, Gián Quan.

 Mô hình quan chế nhà Lý giống nhà Tống, xem Thuỷ hử ta thấy có 4 thái uý cùng nhiệm chức. Thái uý là chức vụ phụ trách quân sự phụ giúp Thượng thư Bộ Binh chắc giống Phó TTTMT bây giờ; Phụ Quốc Thái uý là chức do Nhà Vua cử vào. Đôi khi Tể tướng kiêm Thái uý như Lý Thường Kiệt để đánh Tống hay Bình Chiêm.

Năm 1210, khi họ Trần phù trợ Thái tử Sảm dẹp loan Quách Bốc, Trần Lý tử trận, em vợ là Tô Trung Từ được phong làm Thái uý, con thứ Tràn Lý là Trần Tự Khánh được phong tước hầu (quý tộc), con cả là Tràn Thừa được phong làm Phán thủ (chức đầu bếp, lo hậu cần cho bếp Hoàng cung),

Năm 1211, Tô Trung Từ bị giết, họ Trần bị truy sát, loạn quần hùng, Tể tướng Thái sư Đàm Dĩ Mông mang cả Hoàng gia chạy loạn.

Năm 1916, Huệ tông trốn về với Trần Tự Khánh, phong Tự Khánh làm Thái uý.

1223 Tự Khánh chết, Trần Thừa từ Phán thủ thay em làm Phụ Quốc Thái uý.

Bách quan yêu cầu Huệ Tông nhường ngôi cho con gái là Lý Chiêu hoàng mới 5 tuổi, Niên hiệu là THIÊN CHƯƠNG HỮU ĐẠO nghĩa là Mệnh Trời chuyển sang có Đạo.

1224, Trần Thủ Độ là em họ Trần Thừa được phong làm Chỉ huy sứ (đội trưởng).

1225, Lý Chiêu Hoàng 7 tuổi lấy Trần Cảnh (con Trần Thừa) cũng 7 tuổi và nhường ngôi.

Không phải thông minh gì người ta cũng thấy đây là vở kịch trẻ con, nhưng còn Tam Thái, Tam Thiếu, Tể Tướng, Lụv Bộ, Bách Quan... làm sao để một ông đội trưởng làm vương tướng được.  Lòng người và bách quan đã chuyển.

Cả Vua và Hoàng hậu có 7 tuổi,  lấy niên hiệu là KIẾN TRUNG (chứng kiến lòng trung thành với triều Lý)

Năm 15 tuổi, Hoàng hậu có mang, niên hiệu đổi là THIÊN ỨNG CHÍNH BÌNH (trời ứng ngôi chính), như vậy ông vua Thái Tông cũng chỉ là danh nghĩa thôi; chẳng may, cậu bé Thái tử Trần Trịnh ấy chết yểu và Hoàng hậu đi tu.

Bài thơ Vô Đề xuất hiện từ đó

無題

一甕糟糠麴釀成
幾多智者沒聰明
非惟獨破緇流戒
敗國亡家自此生

Vô đề

Nhất úng tao khang khúc nhưỡng thành,
Kỷ đa trí giả một thông minh.
Phi duy độc phá truy lưu giới,
Bại quốc vong gia tự thử sinh.

Nhiều dịch giả hiểu là

Không đề
(Người dịch: Băng Thanh)

Một vò cám bã ủ lên men,
Tài trí thông minh cũng hoá hèn.
Giới hạnh sư mô tan nát cả,
Bao người nước mất với nhà tan.

Bài thơ có một số điểm cần bàn:

- "Tao khang" nghĩa đen là rượu cũ Nhất ủng tao khang là một bình rượu cũ, tuy nhiên nghĩa bóng, nghĩa thường dùng của từ này lại là vợ chồng lấy nhau từ khi còn bé hay thủa hàn vi.
- "Khúc nhưỡng thành" nghĩa là đang lên men, nhưng thường dùng lại là tình cảm thắm thiết dần.
-  "Kỷ" là nhỏ mọn, "Kỷ đa":  nhiều thứ lặt vặt.
- "Trí" là mưu mẹo khéo
- "Giả" là lời lẽ
- "Kỷ đa trí giả" là  lời khuyên nhiều mưu mô lặt vặt, ám chỉ của phụ nữ.
- "Một" - mai một - làm mất đi
-  "Kì đa trí giả một thông minh" nghĩa là nghe lời mưu mô đàn bà  làm mất cả sự thông minh.
- Phi duy: Chỉ duy có việc
- Độc : không sinh nở được
- Phá: Con gái 16 tuổi lần đầu sinh nở.
- Truy lưu giới: Cắt tóc đi tu
"Phi duy độc phá truy lưu giới"  nghĩa là Con gái 16 tuổi mới thụ thai lần đầu mà nói không sinh nở được, quyết cạo đầu đi tu.
"Bại quốc, vong gia tự thử sinh" nghĩa là Gia đình mất, đất nước tan chỉ vì việc sinh nở

Bài thơ mang khẩu khí của một ông vua, nhưng cũng là tâm sự của một người chồng rất đỗi yêu thưong vợ và Bất lực trước một người vợ quyền uy.

Các bạn có thể tra thêm chữ Hán trong tự điển Thiều Chửu trên mạng.

Bài thơ này có thể là câu chuyện tình đẹp nhất trong lịch sử Việt Nam mà các Sử gia phải công nhận nhưng  bị lăng kính phong kiến làm cho xấu xí, méo mó

Hi sinh tình yêu của mình vì người mình yêu, đó là ý nguyện của cô gái 16 tuổi đó chăng?

24 năm sau, Chiêu Hoàng đồng ý xuất tu để lấy Lê Tần (Lê Phụ Trần), vị anh hùng của trận Bình Lệ Nguyên, trận sông Cà Lồ, trận Đông Bộ Đầu .... đã liều thân bảo vệ cho Thái tông - người chồng rất đỗi yêu thương của mình. Người anh hùng ấy dòng dõi Vua Lê Đại Hành, được đổi tên là Lê Phụ Trần (phù trợ nhà Trần), được phong Bảo Văn Hầu (có công bảo vệ nhà Vua); họ có với nhau một trai, một gái.

Các sự kiện lịch sử 27 năm sau nữa đã làm rõ hơn về 2 vợ chồng; vào đầu cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ 3, Bảo Nghĩa Hầu Trần Bình Trọng là con trsi của người anh hùng và cựu nữ vương năm nào, bị giặc bắt khi chặn giặc để Triều đình rút khỏi Thăng Long an toàn.

Giặc dụ dỗ ông, ta không biết nội dung là gì, không loại trừ giặc nêu ra
dòng dõi Hoàng tộc của ông và Lê Tắc, kẻ đầu hàng giặc trước đó, chứng kiến và ghi lại việc ông quát lên: Ta thà làm Ma nước Nam còn hơn là Vương đất Bắc. Rồi bị giặc giết. Trần Bình Trọng được truy phong Bảo Nghĩa Vương.

Tôi tin câu Trần Bình Trọng quát phải là: Ta thà làm Quỷ; vì Quỷ mới có thể bóp chết giặc.

Chỉ bài thơ ấy, sự kiện ấy, giải oan được cho 3 dòng họ và một giai đoạn lịch sử đầy sóng gió của Việt Nam: Lý Chiêu Hoàng, Lê Tần, Trần Bình Trọng và cả vị Vua anh hùng khai sáng nhà Trần ấy.

Không có nhận xét nào: