Ngôi từ đường họ Mai làng An Hạ vừa được sửa lại sau bao năm bị trưng dụng làm kho chứa phân hóa học của hợp tác xã. Trong buổi dâng hương khánh thành, mọi người vui mừng đón một người của dòng họ gần năm chục năm mới trở về. Người đó là Mai Hiếu. Ngày ông bỏ làng đi, mới mười ba tuổi, nay đã bước sang tuổi sáu ba, mái tóc đã bạc trắng…
Nghe tin ông Hiếu về, người họ Mai đến mừng. Nhiều người làng An Hạ cũng tò mò đến. Họ được biết ông Mai Hiếu là con của ông Mai Trung - người bị xử bắn oan ức năm chục năm trước. Ông Hiếu bỏ làng ra đi trong tâm trạng đớn đau, nỗi lòng chất chứa biết bao trắc ẩn, có mang theo kỷ vật của ông cha.
Lúc chuẩn bị tế vong linh tổ tiên, ông bà và cô bác… dòng họ Mai, ông Trưởng họ Mai nói với ông Mai Hiếu:
- Từ ngày chú đi, ở nhà bà con trong họ, giỗ Tết vẫn thờ cúng ông bà thân sinh chú. Hiềm nỗi không có tấm hình nào của ông, nên bài vị đành để trống. Nghe nói chú còn giữ được hình và kỷ vật của ông?
Ông Mai Hiếu gật đầu,mở va li, lấy ra một chiếc hộp gỗ nhỏ. Trong chiếc hộp ấy, có tấm hình ông Mai Trung, và một lá cờ đỏ búa liềm lớn bằng một vuông khăn có bốn chữ viết bằng máu:“Đảng ơi, cứu con!”
Ông Mai Hiếu rưng rưng kể:
- Thưa bác cả với bà con trong họ, đây chính là kỷ vật mà bố tôi để lại. Hơn nửa thế kỷ rồi, tôi vẫn ôm hận trong lòng!...
Ông Hiếu không nói được hết lời, ôm mặt khóc.
Mọi người lặng lẽ nhìn tấm hình ông Mai Trung và những chữ ông viết bằng máu trên lá cờ, rồi òa khóc theo ông Mai Hiếu…
Hơn nửa thế kỷ trước…
Một buổi trưa tháng sáu. Tiếng kẻng khua gắt gỏng, mọi người vội vã buông đũa bát xuống mâm cơm chưa kịp ăn, lập cập ra đình làng. Con đường đất gan gà nóng bỏng, người nọ nhìn người kia, dò xét, rồi cắm cúi bước đi trong bộ quần áo nâu bạc phếch, vá chằng vá đụp, đội chiếc mê nón không vành te tua trên đầu… Từ ngày cải cách ruộng đất, những cuộc tập trung đấu tố địa chủ cứ liên miên. Nghe kẻng là dân làng phải tập trung, bất kể sớm, trưa, mưa, nắng. Dân làng dần dần quen chịu nhẫn nhục vì luật lệ hà khắc của đội cải cách ruộng đất. Nhiều người phải dùng cả mánh lới ăn cơm độn, cháo loãng, mặc rách rưới để hòa vào tầng lớp cố nông.
Buổi trưa ấy, Đội cải cách ruộng đất mở phiên tòa đấu tố ông Mai Trung - con cụ Mai Phúc, giàu nổi tiếng làng An Hạ. Gia đình ông có tới bốn chục mẫu “thượng đẳng điền”, mấy chục gian nhà ngói, vài chục con trâu.
Cụ Mai Phúc là nhà nho, tham gia Việt Nam Quốc dân Đảng của ông Nguyễn Thái Học, bị thực dân Pháp bắt đi đày tận Angieri. Ông Mai Trung, giác ngộ Cách mạng vào Đảng Cộng sản, làm Bí thư Đảng ủy kiêm xã đội trưởng hồi chín năm kháng chiến, em trai ông đi thoát ly làm tới chức Vụ trưởng ở Bộ Công an…
Nhưng khi cải cách ruộng đất, gia đình ông vẫn bị qui là địa chủ. Đợt một, ông Trung là “địa chủ kháng chiến”. Đợt hai, họ moi ra ba đời trước, rồi qui lên “Địa chủ cường hào gian ác”.
Cả nhà ông Trung đều bị quản thúc, mỗi người một nơi, không cho gặp nhau. Ông Trung bị giam lỏng để lấy cung.
Cách đấy mấy ngày, ông Trung trốn sang nhà tôi được một lúc. Bố tôi nói với ông:
- Năm nay chú bốn chín, cẩn thận kẻo nguy!
Ông Trung nhếch mép, cay đắng:
- Chín năm vào sinh ra tử không chết, chả nhẽ giờ chết dưới tay Đội Cam?
Bố tôi nói:
- Chó dữ cắn càn! Chú phải cảnh giác!
- Chả nhẽ lại đào bem như chín năm? - Ông Trung nói xong nhếch mép cười, rồi than hai đầu gối bị mưng mủ đau nhức quá!...
Bố tôi nhìn hai đầu gối ông Trung, hỏi:
- Sao thế chú?
Ông Trung đáp:
- Nó bắt quỳ lên đống mảnh chai!...
Ông Trung lắc đầu thở dài, đắn đo một lúc, rồi lấy ra lá cờ Đảng đang giấu trong người… Ông nói với bố tôi:
- Tôi đã báo với Đảng tình hình nguy cấp ở ta hiện nay. Đội cải cách lộng hành quá! Nhiều oan ức quá rồi!... Tôi đã viết mấy lá thư mà chưa có ai trả lời. Nay đành lấy máu viết lên cờ Đảng kêu oan vậy. Chú tìm cháu Hiếu, bảo nó lên Hà Nội gấp, gặp chú Dũng giúp tôi…
Bố tôi gật.
Ông Trung đưa lá cờ Đảng cho bố tôi, nói như trăn trối:
- Anh em mình cùng lăn lộn với nhau suốt chín năm, giờ mỗi người một ngả!...
Bố tôi tìm được Mai Hiếu đang bị cách ly ở xóm Trại, ông đưa lá cờ Đảng cho Mai Hiếu. Giấu lá cờ vào cặp sách Hiếu trốn lên Hà Nội ngay đêm ấy.
Sáng sớm hôm sau, đội quân cốt cán bắt trói ông Trung mang đi. Và trưa nay mang ra xử.
Dưới cái nắng như đổ lửa, mấy trăm người làng An Hạ ngồi bệt xuống cái sân gạch, dự phiên đấu tố ông Trung.
Lúc sau, một đoàn thiếu nhi nhễ nhãi mồ hôi mang băng cờ, rước Đội cải cách ruộng đất đến sân đình.
Đi đầu là Đội trưởng Lê Cam.
Năm ấy, Lê Cam mới ba mươi tuổi, người bé loắt choắt, khuôn mặt lầm lầm, dữ tợn. Cam đi bộ đội được mấy tháng thì hòa bình lập lại, nhờ lý lịch ba đời nghèo khổ, phải làm mõ, nên được chọn làm cán bộ cải cách ruộng đất. Từ khi về làng, Lê Cam tổ chức đấu tố liên miên, bắt hết người này đến người khác.
Lê Cam vốn rất mặc cảm vì mình sinh ra trong một gia đình làm mõ. Ngay từ hồi bé, Lê Cam đã oán ghét người không cùng cảnh với mình. Sự oán ghét ấy lớn lên, đóng vảy trong trái tim bệnh hoạn của Lê Cam biến thành hận thù. Nên bây giờ có quyền trong tay, Lê Cam trả thù một cách hả hê…
Đi sau Cam là Làn, con gái lão Tơn, cũng từng làm mõ.
Làn vừa được kết nạp Đảng, là cốt cán của đội cải cách, ngày đêm họp hành, ăn ở với Cam. Nhìn cái bụng lùm lùm của ả, mấy bà nguýt:
- Chửa đã bốn năm tháng rồi đấy!
Kế đến là Tập “nghễnh ngãng”, là Dựa “chột mắt” và Rính “đẹn”… Tất cả họ đều là thành phần cố nông, vừa mới được chia quả thực hạng A, nhà cửa, giường chiếu, mâm đồng, bát nhang, chủi cùn rế rách… tịch thu của các địa chủ.
Đội Cam và ban chỉ huy bước lên khán đài làm bằng tre, quây cót chung quanh.
Cam ngồi chính giữa cái khẩu hiệu đỏ chói: “Thẳng tay trừng trị bọn địa chủ cường hào gian ác!”
Phía sau khán đài có cây đa cổ thụ. Trước kia bọn trẻ hay leo trèo lên lấy nhựa đa nhai như kẹo mạch nha, và hái những quả đa chín mọng. Từ ngày cải cách ruộng đất, gốc đa trở thành chỗ xử bắn địa chủ, cường hào. Thân cây đa lỗ chỗ những vết đạn…
Đội Cam đưa cặp mắt ti hí đảo xuống sân, thấy đã kín kín người, mới phẩy tay ra lệnh:
- Cho tên Mai Trung vào!
- Rõ!
Năm du kích: ba nam, hai nữ khoác súng, kéo lê ông Mai Trung từ gốc đa vào… Người ông quắt lại nhỏ thó, mái tóc bạc trắng. Ông bị trói quặt hai cánh tay lại sau lưng, quần áo rách bươm, chìa mảng sườn bầm tím và hai đầu gối sưng mọng…
- Quỳ xuống! - Một du kích ra lệnh.
Ông Trung nói:
- Đầu gối tôi đau quá! Không quỳ được nữa!...
Tay du kích lấy mũi súng chọc vào sườn ông:
- Ngoan cố hả? - Rồi y ấn ông Trung xuống.
Đội Cam cầm mảnh giấy ghi danh sách tố khổ, gọi:
- Phạm Thị Xắng?
- Dạ! Có tôi!
Sau tiếng nói như hét lanh lảnh ở giữa sân ấy, mụ Xắng đứng phắt dậy, giật chiếc khăn vuông đội đầu cho mái tóc sổ tung, rồi te te chạy lên…
2 nhận xét:
Kinh khủng thật.
Quá khứ là bài học cho tương lai. Vậy mà ở ta có thời người ghi sử cứ phải giếm hay viết sai đi. Chán!
Đăng nhận xét