Ông bà Trần Hiệu. |
Một ngày đầu tháng 4 năm 1946, theo quyết
định điều động công tác của Xứ ủy, tôi đến trụ sở Công an bắc Bộ tìm gặp đồng
chí Trần Hiệu (tức Hoàng Mỹ), khi đó giữ trọng trách Phó Giám đốc Sở Công an Bắc
Bộ, nhưng trên thực tế là người nắm quyền điều hành toàn bộ các hoạt động của Sở
Công an. Lúc này, để tập trung các lực lượng chính trị chống âm mưu xâm lược của
thực dân Pháp, Đảng ta chủ trương thành lập Chính phủ Liên hiệp có sự tham gia
của một số nhân vật trong hai tổ chức Việt Quốc, Việt Cách. Đối với lực lượng
Công an, Đảng ta thực hiện sách lược “trung lập hóa”, nên để ông Đào Hùng, một
người có quan hệ với Đại Việt giữ ghế Giám đốc Sở Công an Bắc Bộ.
Tại phòng làm việc của đồng chí Trần Hiệu,
tôi gặp gỡ ba đồng chí khác cũng nhận quyết định điều động của tổ chức Đảng
sang lực lượng Công an cùng đợt với tôi là các anh Phạm Văn Nghi,
Trần Xuân Viên (Viễn Chi), Mai Văn Mạc. Trong buổi gặp gỡ, anh
Trần Hiệu nói với chúng tôi về chủ trương của Đảng điều động, bổ sung cho lực
lượng công an nhiều đảng viên để xây dựng lực lượng công an cách mạng trở thành
công cụ tin cậy của Đảng và nhân dân. Lớp đảng viên sang công an đợt này và cả
một số đợt sau sẽ thay thế các vị trí lãnh đạo các cấp trong lực lượng công an cách
mạng. Những ngày sau đó, đích thân đồng chí Trần Hiệu đã mở một lớp bồi dưỡng cấp
tốc cho bốn anh em chúng tôi về một số nội dung: Đường lối cách mạng của Đảng;
Nhiệm vụ của Công an trong tình hình mới; Công tác Đảng trong Công an; Công tác
tổ chức và đặc biệt là đi sâu vào công tác điều tra nắm tình hình và công tác hỏi
cung can phạm.
Bản
thân tôi rất ngạc nhiên, không hiểu vì sao một cán bộ, đảng viên của Đảng ta mà
vào thời điểm đó lại có kiến thức sâu, rộng về nghiệp vụ công an đến thế. Sau
này, qua thời gian công tác lâu năm trong lực lượng công an, tôi mới dần biết
thêm về đồng chí Trần Hiệu. Đồng chí Trần Hiệu tên thật là Vũ Văn Địch, thời
kỳ công tác ở công an bắc Bộ lấy bí danh là Hoàng Mỹ. Đồng chí Trần Hiệu sinh
năm 1914, quê huyện Mỹ Đức,
tỉnh Hà Đông (nay thuộc thành phố Hà Nội),
trong một gia đình trung nông lớp trên theo Nho học và có truyền thống yêu nước.
Ông tham gia cách mạng từ năm 1929, năm 1936, Trần Hiệu được đồng chí Trường
Chinh kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1939, ông bị thực dân Pháp bắt
và đày đi các nhà nhà lao Sơn La, Bắc Mê rồi đày sang Madagascar, một thuộc địa
của Pháp ở miền Nam châu Phi.
Tại trại tù ở quốc đảo Madagascar, Trần
Hiệu và các đồng chí của ông, tiêu biểu là Phan Bôi (tức Hoàng Hữu Nam, sau là
Thứ trưởng Bộ Nội vụ); Tô Gĩ (tức Lê Giản, sau là Tổng Giám đốc Nha Công an Việt
Nam); Hoàng Đình Giong (tức Vũ Đức, sau là Khu trưởng Khu 9 rồi Khu 6); Nguyễn
Văn Ngọc (sau là Giám đốc Sở Công an Trung Bộ, Chánh văn phòng Thứ Bộ Công an,
Phó chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ); Nguyễn Văn Phòng (tức Nguyễn Văn Minh, sau
là Chánh án Tòa dân sự - Tòa án nhân dân tối cao); Đoàn Ngọc Rê (tức Cao Dương
Tiệp, Dương Công Hoạt, sau là Ủy viên Ban Dân tộc Trung ương kiêm Phó chủ nhiệm
Ủy ban Dân tộc của Chính phủ)… ra sức tăng gia sản xuất, cải thiện đời sống vật
chất, tinh thần, quyết không để chết dần chết mòn như ý đồ hiểm độc của thực
dân Pháp.
Năm 1942, sau khi quân Anh đánh chiếm
quốc đảo Madagascar từ tay lực lượng của chính phủ bù nhìn Vichy (Pháp), rồi
giao lại cho lực lượng của tướng Charles De Gaule (phe kháng chiến chống phát -
xít của Pháp) kiểm soát, các tù nhân Việt Nam trên danh nghĩa được trả tự do, nhưng
vẫn sống trong các trại giam cũ. Tháng 3 năm 1943, quân đồng minh Anh - Pháp thành
lập “Đội quân chí nguyện Đông Dương”, nên chủ trương tuyển số tù chính trị ở
các nước thuộc Đông Dương. Họ bắt đầu tuyển các tù chính trị Việt Nam, đầu tiên
là Hoàng Đình Giong và Đoàn Ngọc Rê. Anh em cộng sản liền nhóm họp, sau nhiều
cuộc tranh luận có lúc khá gay gắt, các đồng chí đi đến quyết định: lấy lý do
muốn về nước chống phát-xít Nhật, để tranh thủ
bọn Anh-Pháp. Kết quả là tháng 6 năm 1943, các anh Phan Bôi, Tô Gĩ (tức Lê
Giản, cũng chính là em họ đồng chí Tô Hiệu), Nguyễn Văn Phòng được gọi “nhập
ngũ”. Tới đầu tháng 9 thì đến Trần Hiệu và 12 người khác. Hầu hết được đưa tới
Đại đội 1 thuộc cái gọi là “Quân chí nguyện Đông Dương” của lực lượng Đờ Gôn
(phe Đồng Minh chống phát-xít). Tại đây, Trần Hiệu và các đồng chí của ông đã vừa
vận động binh lính người Việt, vừa tìm cách tranh thủ, thuyết phục bọn Pháp
(phái Đờ Gôn) ủng hộ để bảo toàn đội ngũ, sớm trở về nước. Đầu năm 1944, đồng
chí Trần Hiệu cùng với các đồng chí Nguyễn Văn Ngọc, Nguyễn Văn Phòng được quân Anh
đưa tới Kênia rồi sang Ấn Độ. Ông cùng một số đồng chí của mình được người Anh
tuyển mộ sang hoạt động tình báo, được huấn luyện về lý thuyết, phương pháp gây
cơ sở, lấy tin, cách đánh moóc-xơ và dịch mật mã…
Để đưa những người vốn là tù chính trị An
Nam, nay “tình nguyện” ra nhập đội quân chống phát-xít trở về Đông Dương, quân Anh
đã tổ chức mấy chuyến nhảy dù. Chuyến nhảy dù đầu tiên tiến hành trong tháng 8 tháng 1944, gồm
Tô Gĩ (Lê Giản) và Hoàng Đình Giong đổ bộ xuống vùng ven thị xã Cao Bằng và được
cơ sở cách mạng đưa về vùng căn cứ an toàn. Khoảng một tháng sau, Dương Công Hoạt
và Hoàng Hữu Nam
nhảy dù xuống cánh đồng Khau Tòng (làng Khau Đồn, Cao Bằng). Nhóm này bắt liên
lạc trở lại với Bộ Tư lệnh quân Anh ở Ấn Độ đã có kết quả. Sau đó, anh em ở Cao
Bằng nhận được 6 dù tiếp tế gồm máy thu thanh, thuốc men, quần áo và thức ăn.
Nhóm ở Hà Đông nhận được một dù vũ khí. Đến tháng 3
năm 1945, máy
bay B-29 của Anh chở các đồng chí Trần Hiệu, Nguyễn Văn Ngọc, Nguyễn Văn Phòng bay từ Đắc - ka
qua vịnh Ben -gan, vịnh Thái Lan, vịnh Bắc Bộ vào châu thổ sông Hồng thực hiện
kế hoạch nhảy dù. Ba người nhảy dù xuống làng Tiên Lữ (huyện Quốc Oai - tỉnh Hà
Đông), chỉ ít ngày sau đã bắt liên lạc được với Xứ ủy Bắc Kỳ.
Trong một buổi họp mặt với những nhà Tình báo thời chống Mỹ. Cụ Trần Hiệu (ngồi hàng đầu, thứ hai từ trái). Cụ Trần Quốc Hương (Mười Hương), hàng đầu thứ ba từ trái. |
Tháng 8 năm 1945, theo sự phân công của
Xứ ủy Bắc kỳ, đồng chí Trần Hiệu tham gia chỉ đạo khởi nghĩa giành chính quyền ở
Hà Đông. Cách mạng tháng Tám (1945) thành công, ông được Đảng phân công sang
công tác tại ngành Công an và giữ các cương vị trưởng phòng Chính trị rồi Phó
Giám đốc Sở Công an Bắc Bộ. Năm 1946, trong những tháng ngày hết sức khó khăn,
gian khổ đấu tranh bảo vệ chính quyền nhân dân mới thành lập, ông Trần Hiệu và
các cán bộ lãnh đạo lực lượng công an cách mạng như các đồng chí Lê Giản, Lê Hữu
Qua, Nguyễn Tạo, Nguyễn Tài, Trần Đức Minh… đã lãnh đạo lực lượng công an Việt
Nam non trẻ anh dũng chiến đấu, đập tan nhiều âm mưu phá hoại, lật đổ của các đảng
phái phản động, câu kết với thực dân xâm lược. Điển hình là đã đập tan âm mưu đảo
chính của kẻ thù trong vụ án Ôn Như Hầu (ngày 12/7/1946), tại thủ đô Hà Nội.
Đầu năm 1947, Cục Tình báo thuộc Tổng Chỉ
huy Quân đội Quốc gia Việt Nam được thành lập, ông Trần Hiệu được Trung Ương Đảng
và Bác Hồ giao trọng trách Cục trưởng (theo sắc lệnh số 108-ngày 20/1/1948 do
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký). Tháng 4 năm 1950, ông được tổ chức giao nhiệm vụ
giữ cương vị Phó giám đốc Nha Công an Việt Nam, kiêm Trưởng ty Tình báo - Nha
Công an.
Tháng
7 năm 1951, Cơ quan Tình báo Chiến lược với tên gọi Nha Liên lạc thuộc
Thủ tướng Phủ được thành lập, ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký
sắc lệnh bổ nhiệm Giám đốc. Ngày 10 tháng 6 năm 1957, Nha Liên lạc hợp nhất
với Cục Quân báo - Bộ Tổng tham mưu thành Cục Tình báo, cơ quan Tình báo Chiến
lược của Đảng và Quân đội, ông lại được bổ nhiệm Cục trưởng. Năm 1958, ông được phong quân
hàm Đại tá. Dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng
chí Trần Hiệu cùng với đồng chí Trần Quốc Hương (Mười Hương) là những người có
công xây dựng lực lượng tình báo chiến lược của Đảng và Quân đội với những tên
tuổi lớn trong kháng chiến chống Mĩ như: Lê Hữu Thúy, Vũ Ngọc Nhạ, Phạm Xuân Ẩn,
Phạm Ngọc Thảo, Đặng Trần Đức (Ba Quốc), Đinh Thị Vân…
Trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ gian khổ và nhiều hy sinh, lớp cán bộ Tình báo tài năng, trung
kiên do đồng chí Trần Hiệu lựa chọn, bồi dưỡng từ những ngày còn ở Chiến khu Việt
Bắc, đã lập nhiều chiến công xuất sắc trên trận tuyến thầm lặng chống quân thù.
Tổ quốc, Quân đội và nhân dân ta mãi mãi ghi nhớ những đóng góp hết sức quan trọng
của lực lượng Tình báo tài giỏi, dưới sự lãnh đạo của TƯ Đảng và Bác Hồ.
******* @ *******
3 nhận xét:
Những năm đầu 1960, nhà cụ Hiệu ở cùng nhà cụ Lê Trọng Nghĩa ở 93 (hay 95) Lý Nam Đế. Trẻ con số nhà ấy hay sang chơi với tụi tôi ở khu tập thể 38 Trần Phú. Lộ học k6 Trỗi.
Mãi sau này mới biết cụ Hiệu từ Madagasca được đưa về VN sau 1945 và là 1 trong số vài nguồi đầu tiên xây dựng ngành quân báo của ta.
Tư liệu này thật quý. Cảm ơn Dũng.
Cụ Phan Bôi có họ hàng với cụ Phan Thanh (ba anh Phan Diễn). GS Phan Quốc Khánh (nguyên giáo viên Toán Đại học KTQS) là con cụ Bôi. Cụ mất năm 1947 trong kháng chiến chống Pháp.
Q ơi, ông cho lại tôi cái Poljot này nhé. Vì cuối 1969 khi tôi từ Hưng Hóa về QK4 có bàn giao cho Tấn Lợi cái đồng hồ Poljot Bác Hồ tặng ông già tôi trước khi cùng đoàn cán bộ các cấp VN đi Liên Xô đầu 1969.
Đến đầu 1970, Tấn Lợi, Lê Bình, Phước Ngọc, Trung Nam trốn đi B, vì đói quá đã bán đồng hồ này, đổi lấy ruột tượng gạo, chống đói. Ông biết chúng nó trốn trường, có nghĩa ông cũng là đồng phạm. Nay có điều kiện, phải bồi thường tôi.
Haaaaaaaa!
Phan Nam
Đăng nhận xét