Niềm
mong ước về một đất nước Việt Nam
hòa bình, thống nhất suốt hai thập kỷ kháng chiến máu lửa với rất nhiều hy sinh
của cả dân tộc đã thành hiện thực. Trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975, xích xe tăng
của quân đội cách mạng đã húc tung cánh cổng Dinh Độc Lập, cơ quan đầu não của
chế độ Việt Nam
Cộng hòa thân Mỹ. Những đoàn quân chiến thắng với lá cờ đỏ sao
vàng trên tháp xe tăng đã tỏa đi khắp đường phố Sài Gòn. Có lẽ bên cạnh tâm
trạng vui mừng tột độ trong chiến thắng lịch sử, hàng triệu người lính của đội
quân chiến thắng cũng rất mong ngày trở về dưới mái nhà thân yêu của họ ở miền
Bắc xa xôi. Có nhiều người trong số họ đã có hàng chục năm trời đằng đẵng cùng
đơn vị của mình đi qua các nẻo đường trường chinh của cuộc kháng chiến, hầu như
không hề có sợi dây liên lạc nào với gia đình. Nhưng vẫn còn rất nhiều nhiệm vụ
của quân đội đang chờ họ ở phía trước như: Tham gia giữ gìn trật tự an ninh và
xây dựng chính quyền nhân dân ở những vùng mới giải phóng; Thực hiện nhiệm vụ
rà phá bom mìn để lấy đất đai phục vụ cho sản xuất và xây dựng; Làm nhiệm vụ
giữ gìn hải phận Tổ quốc ở các vùng biển đảo xa xôi; Đi xây dựng nông trường để
mở ra những vùng kinh tế mới... Và thật bất ngờ là ngay sau giải phóng, nhiều
đơn vị bộ đội ta lại tiếp tục hành quân ra biên giới phía Tây Nam để bảo vệ
lãnh thổ đất nước trước sự gây hấn ngày càng gia tăng của lực lượng quân đội
thuộc chính quyền Khmer Đỏ (Campuchia).
Lạng Sơn 0 km. |
Khi đó, với những thông tin được chính quyền
công bố công khai trên báo chí, thì chắc rất ít người dân được biết những sự
thật về tình hình căng thẳng ở biên giới Tây Nam, càng ít người biết rằng:
Chiến thắng mùa Xuân năm 1975 của nhân dân Việt Nam “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho
Ngụy nhào” đã làm cho nước lớn Phương Bắc, khi đó vẫn là “đồng chí, là anh em”
với chúng ta hết sức tức tối. Vì họ không muốn chứng kiến một nước Việt Nam
thống nhất và hùng cường, sẽ khó “sai bảo”, khó chịu ảnh hưởng lớn từ họ và hơn
nữa là sẽ không phục tùng các ý đồ bành trướng ra Biển Đông của họ.
Sau này,
khi nhiều thông tin “Mật” thời gian đó được công bố, chúng ta mới được biết rõ
hơn những toan tính và hành động phản bội “đồng chí”, phản bội bạn bè của
“người anh em láng giềng” thâm hiểm và trắng trợn đến mức độ nào. Bằng chứng cụ thể là trong lúc quân và dân ta đang dồn sức
cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, thì vào ngày 19
tháng 1 năm 1974, “nước lớn Phương Bắc” đã dùng lực lượng quân sự tấn công lực
lượng Hải quân của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, đánh chiếm nhiều đảo trong
quần đảo Hoàng Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam.
*
Sau chiến thắng lịch sử tháng 4 năm 1975 của dân tộc ta, với những mưu
toan phá hoại sự ổn định chính trị của Việt Nam, nhà cầm quyền Bắc Kinh đã tiến
hành cuộc “Chiến tranh phá hoại nhiều mặt”, hòng làm nước ta tiếp tục suy yếu
về kinh tế, bị cô lập với thế giới về chính trị, để đẩy Việt Nam vào vòng lệ
thuộc của TQ. Những năm 1975 – 1979, lợi dụng tình hình đất nước ta sau chiến
tranh gặp nhiều khó khăn về kinh tế, lại đang phải dồn sức ổn định tình hình an
ninh, trật tự ở địa bàn phía Nam, tình hình xã hội còn nhiều bất ổn, nhà cầm
quyền TQ đã âm mưu sử dụng bọn phản động trong nước, dùng Hoa kiều như “một đội
quân ngầm” để tiến hành kiểu “chiến tranh phá hoại nhiều mặt”, thậm chí kích
động, xúi giục bạo loạn chính trị để thực hiện “trong đánh ra, ngoài đánh vào”
hòng lật đổ chính quyền dân chủ nhân dân. Thâm hiểm hơn nữa, ngay từ năm 1975,
nhà cầm quyền Bắc Kinh còn làm hậu thuẫn, cung cấp cho chính quyền Khmer Đỏ về
vũ khí, cử cố vấn quân sự sang giúp tập đoàn diệt chủng Pol Pot- Ieng Sary-
Khieu Sam Phon để tiến hành chiến tranh chống phá Việt Nam.
Vừa xong chiến tranh chống Mỹ, lại chiến tranh biên giới Tây Nam... |
Ngay từ đầu tháng 5
năm 1975, được sự hậu thuẫn của cả Hoa Kỳ và TQ, lực lượng quân sự của chính
quyền Khmer Đỏ đã tiến hành nhiều cuộc tập kích qua biên giới nước ta, khu vực
từ Hà Tiên đến Tây Ninh. Cũng trong tháng 5 năm 1975, quân Pol Pot tấn công
đánh chiếm đảo Phú Quốc (ngày 3/5), đảo Thổ Chu (ngày 10/5) và đảo Vai (lúc đó
thuộc Việt Nam
quản lý). Tại đảo Thổ Chu, chúng đốt phá nhà cửa, bắt đi hơn 500 dân trên đảo.
Đến cuối năm 1975, đầu năm 1976, quân Pol Pot tiếp tục gây ra hàng trăm vụ tập
kích, lấn chiếm biên giới, đặc biệt nghiêm trọng là chúng tấn công cả vào các
đồn Công an nhân dân vũ trang, bắn vào các đội tuần tra biên giới của ta…
Đêm 30/4, rạng sáng ngày 1/5/1977, quân và dân khu vực biên giới các xã
từ Nhơn Hưng đến Vĩnh Gia thuộc huyện Bảy Núi (tỉnh An Giang) đã đột ngột hứng
chịu nhiều loạt đạn pháo bắn phá ác liệt từ bên kia biên giới, mở màn cho cuộc
xâm lược qui mô lớn của lực lượng quân đội Pol Pot. Địch đã huy động lực lượng
cấp trung đoàn cùng lực lượng địa phương hai tỉnh Ta Keo và Kan Dan bất ngờ mở
cuộc tiến công vào hầu hết các đồn Công an nhân dân vũ trang Việt Nam dọc biên
giới, từ Vĩnh Gia đến Vĩnh Xương thuộc tỉnh An Giang, gây nhiều tội ác đối với
nhân dân ta. Kể từ đây, số vụ gây chiến, xâm lược của quân đội Pôn Pốt trên
toàn tuyến biên giới Tây Nam nước ta ngày càng tăng: từ 174 vụ năm 1975 và 254
vụ năm 1976, tăng lên 1.150 vụ năm 1977 và đến tháng 10 năm 1978 lên tới 4.820
vụ. Hành động của quân Pôn Pốt không còn mang tính chất là những vụ xung đột
quân sự vi phạm biên giới quy mô nhỏ, lẻ, mà đã phát triển thành một cuộc chiến
tranh xâm lược. Ngay trong những ngày đầu chiến đấu bảo vệ biên giới Tổ quốc,
cùng với quân và dân các địa phương, lực lượng CANDVT các tỉnh An Giang, Đồng
Tháp, Tây Ninh đã chiến đấu dũng cảm, tiêu diệt nhiều địch, bảo vệ địa bàn, bảo
vệ nhân dân. Tiêu biểu là gương chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ các đồn, trạm
biên phòng của lực lượng CANDVT như: Trạm biên phòng Tịnh Biên, Vĩnh Hội Đông
(An Giang); đồn biên phòng Xà Xía, Thạch Động, Núi Đá Dựng (Kiên Giang); đồn
biên phòng Xa Mát, đồn Tống Lê Chân (Tây Ninh); đồn biên phòng Hoa Lư (Sông
Bé)…
Để ngăn
chặn và đập tan các hành vi xâm lược của bọn Pol Pot, ngày 31 tháng 12 năm 1977, sáu sư đoàn Quân
đội Nhân dân Việt Nam đã đánh vào sâu trong đất
Campuchia, đẩy đuổi địch đến tận Neak
Luong rồi
lại rút về lãnh
thổ Việt Nam. Cuộc tấn công này được xem là lời “cảnh cáo" đối với các hành vị xâm lấn biên giới Việt Nam của Khmer Đỏ. Chính
phủ Việt Nam
tiếp tục đề nghị với nhà cầm quyền Campuchia một giải pháp ngoại giao, nhằm thiết lập một vùng phi quân sự dọc biên giới, nhưng Pol
Pot từ
chối và giao tranh tiếp diễn.
Đầu năm
1978, Pol
Pot đã điều 13 trong số 17 sư đoàn chủ lực và một số trung đoàn địa phương liên
tục tấn công vào lãnh thổ Việt Nam, có nơi vào sâu tới 15-20 km.
Trong các
đợt tấn công đó, Khmer Đỏ đã thực hiện thảm sát đối với người Việt Nam. Theo số liệu tổng hợp, tính từ tháng 5/1975 đến tháng 12/1978, trong các cuộc tấn công vào đất Việt
Nam, bọn xâm lược Pol Pot đã giết hại hơn 5.000 dân thường, làm bị thương gần
5.000 người, bắt và đưa đi thủ tiêu hơn 20.000 người. Hàng nghìn trường học,
bệnh viện, cơ sở y tế, nhà thờ, chùa chiền bị đốt phá, hàng nghìn trâu, bò bị
cướp, giết; hàng nghìn héc-ta lúa, màu bị phá hoại. Hàng vạn héc-ta ruộng đất
và đồn điền cao su ở vùng ven biên giới Tây Nam bị bỏ hoang. Nửa triệu dân sát
biên giới phải bỏ nhà, bỏ đất, bỏ ruộng chạy dạt về phía Đông. Điển hình cho
tội ác dã man của quân Khmer Đỏ là vụ thảm sát tại Ba Chúc (An Giang) vào tháng 4 năm 1978 với
3.157 dân thường bị giết hại.
Trong bối cảnh
đất nước còn muôn vàn khó khăn thời hậu chiến, TQ với tư tưởng bành trướng,
nước lớn đã làm cho tình hình biên giới phức tạp cả ở hai đầu đất nước, dần đưa
nước ta vào hai cuộc chiến tranh bắt buộc, đó là chiến tranh biên giới Tây Nam
và chiến tranh biên giới phía Bắc. Vậy là ngay sau chiến thắng lịch sử của dân
tộc ta năm 1975, kết thúc cuộc kháng chiến chống Đế quốc Mỹ và tay sai, thống
nhất đất nước, với dã tâm và hành động của nước lớn láng giềng phương Bắc, câu
kết với các thế lực thù địch với Việt Nam trên thế giới, đã đẩy nước ta vào
hoàn cảnh vô cùng khó khăn. Rồi đến năm 1979, chỉ 4 năm sau cuộc kháng chiến
chống Mỹ xâm lược kéo dài hai thập kỷ, đất nước ta lại phải tiến hành “Cuộc
chiến tranh bắt buộc” để bảo vệ Tổ quốc ở hai mặt trận biên giới Tây Nam và
biên giới phía Bắc, cuộc chiến kéo dài tới 10 năm với biết bao hy sinh, tổn
thất.
5 nhận xét:
Thực tế lịch sử là điều không thể giấm giếm mà phải là bài học cho tương lai. Hoan hô nhà báo Đinh Việt Dũng!
Sửa sai: giấu giếm.
-Với 1 dân tộc không có ai là bạn hay là thù vĩnh viễn, chỉ có quyền lợi dân tộc là vĩnh viễn.
-Kẻ thù của kẻ thù của ta là bạn của ta.
Sang năm tới Hoàng Sa.
CCB F361
"Kẻ thù của kẻ thù của ta là bạn của ta." Lý lẽ không đáng tin cậy trong một thế giới đa cực.
Đăng nhận xét