Thứ Ba, 4 tháng 2, 2014

Ngày Xuân, tản mạn đôi điều về câu đối (Quang Việt)


Theo Wikipedia tiếng Việt, Câu đối thuộc thể loại văn biền ngẫu, gồm hai vế đối nhau nhằm biểu thị một ý chí, quan điểm, tình cảm của tác giả trước một hiện tượng, một sự việc nào đó trong đời sống xã hội. Nên lưu ý là từ đối () ở đây có nghĩa là ngang nhau, hợp nhau thành một đôi. Câu đối là một trong những thể loại của Văn học Trung QuốcViệt Nam.
Khi viết câu đối, nếu chọn được câu chữ tuân theo nguyên tắc sau thì đôi câu đối được gọi là chỉnh đối hay đối cân.
Đối ý và đối chữ
  • Đối ý: hai ý đối phải cân nhau mà đặt thành 2 câu sóng nhau.
  • Đối chữ: phải xét 2 phương diện thanh và loại.
- Về thanh: thanh bằng đối với thanh trắc và ngược lại.
- Về loại: thực tự (hay chữ nặng như: trời, đất, cây...) phải đối với thực tự; hư tự (chữ nhẹ như: thì, mà, vậy, ru...) phải đối với hư tự; danh từ phải đối với danh từ, động từ phải đối với động từ; nếu vế đối này có đặt chữ Nho thì vế kia cũng phải đặt chữ Nho...


Vế câu đối
Một đôi câu đối gồm hai câu đi song nhau, mỗi câu là một vế. Nếu câu ấy từ một người sáng tác gọi là vế trênvế dưới. Nếu một người nghĩ ra một vế để người khác làm vế kia thì gọi là vế ravế đối.
Khi một câu đối do một người làm ra cả hai vế, thì chữ cuối, vế trên, câu bên phải (khi treo) là thanh trắc; còn chữ cuối, vế dưới, câu bên trái là thanh bằng.
Số chữ và các thể câu đối
Số chữ trong câu đối không nhất định, theo số chữ và cách đặt câu có thể chia câu đối ra làm các thể sau:
  • Câu tiểu đối: là những câu 4 chữ trở xuống.
  • Câu đối thơ: là những câu làm theo lối đặt câu của thể thơ ngũ ngôn hoặc thất ngôn.
  • Câu đối phú: là những câu làm theo các lối đặt câu của thể phú, gồm có:
- Lối câu song quan: là những câu 6 đến 9 chữ, đặt thành một đoạn liền
- Lối câu cách cú: là những câu mà mỗi vế chia làm 2 đoạn, một đoạn ngắn, một đoạn dài
- Lối câu gối hạc hay hạc tất: là những câu mỗi vế có 3 đoạn trở lên.
Luật bằng trắc
  • Câu tiểu đối:
- Vế phải: trắc-trắc-trắc
- Vế trái: bằng-bằng-bằng
  • Câu đối thơ: phải theo đúng luật bằng trắc của hai câu thựccâu luận trong lối thơ ngũ ngôn hoặc thất ngôn.
  • Câu đối phú: Chữ cuối mỗi vế và chữ cuối mỗi đoạn phải bằng đối với trắc hoặc trắc đối với bằng. Khi mỗi vế đối có từ 2 đoạn trở lên thì nếu chữ cuối vế là trắc, các chữ cuối các đoạn trên phải là bằng và ngược lại. Nếu đoạn đầu hoặc đoạn dưới có đúng 7 chữ thì đoạn ấy thường theo luật thơ thất ngôn.
Câu đối Việt Nam được Dương Quảng Hàm phân loại theo ý nghĩa, gồm các loại sau:
  • Câu đối mừng: làm để tặng người khác trong những dịp vui mừng như: mừng thọ, mừng thi đỗ, mừng đám cưới, mừng nhà mới...
Nhất cận thị, nhị cận giang, thử địa khả phong giai tị ốc.
Sống ở làng, sang ở nước, mừng ông nay lại vểnh râu tôm
(Nguyễn Khuyến, viết mừng một chánh tổng trước bị cách chức, sau được phục sự và làm nhà mới.)
  • Câu đối phúng: làm để viếng người chết.
Nhà chỉn nghèo thay, nhờ được bà hay lam hay làm, thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng,
tất tưởi chân nam đá chân chiêu, ví tớ đỡ đần trong mọi việc
Bà đi đâu vợi mấy, để cho lão vất vơ vất vưởng, búi tóc củ hành, buông quần lá toạ,
gật gù tay đũa chạm tay chén, cùng ai kể lể chuyện trăm năm.
(Nguyễn Khuyến: câu đối khóc vợ)
  • Câu đối Tết: làm để dán nhà, cửa, đền, chùa...về dịp Tết Nguyên Đán.
Chiều ba mươi, nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng Bần ra cửa.
Sáng mồng một, rượu say tuý luý, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà.
(Nguyễn Công Trứ, câu đối làm vào dịp tết lúc còn hàn vi.)
Tết đến không tiền vui chi Tết / Xuân về kết gạo đón chi Xuân.
(Tác giả, câu đối làm vào dịp tết lúc còn hàn vi.)
  • Câu đối thờ: là những câu tán tụng công đức tổ tiên hoặc thần thánh làm để dán hoặc treo những chỗ thờ.
Tuế hữu tứ thời xuân tại thủ.
Nhân ư bách hạnh hiếu vi tiên.
(Dịch nghĩa: Năm có bốn mùa, mở đầu bằng mùa xuân. Người ta có trăm tính nhưng tính hiếu thảo là cần trước hết) hoặc:
Mở rộng phương Tiên, công tế thế cao bằng Thái lĩnh
Sống nhờ của Phật, ơn cứu người rộng tựa Cẩm Giang
(Câu đối thờ Tuệ Tĩnh ở đền Bia)
Tùng thanh, trúc thanh, chung khánh thanh, thanh thanh tự tại.
Sơn sắc, thủy sắc, yên hà sắc, sắc sắc giai không.
(Câu đối khắc ở chùa Diệu Đức, Huế).
  • Câu đối tự thuật: là những câu kể ý chí, sự nghiệp của mình và thường dán ở những chỗ ngồi chơi.
Chị em ơi! ba mươi sáu tuổi rồi, khắp đông, tây, nam, bắc bốn phương trời, đâu cũng lừng danh công tử xác.
Trời đất nhẻ! gắng một phen này nữa, xếp cung, kiếm, cầm, thư vào một gánh, làm cho nổi tiếng trượng phu kềnh
(Nguyễn Công Trứ, câu đối tự thuật)
  • Câu đối đề tặng: là những câu đối làm ra để đề vào chỗ nào đó hoặc tặng cho người khác.
Nếp giàu quen thói kình khơi, con cháu nương nhờ vì ấm
Việc nước ra tay chuyên bát, bắc nam đâu đấy lại hàng
(Lê Thánh Tông, câu đối đề ở một hàng bán giàu (trầu) nước)
  • Câu đối tức cảnh: là những câu tả ngay cảnh trước mắt.
Giơ tay với thử trời cao thấp
Xoạc cẳng đo xem đất ngắn dài
(Hồ Xuân Hương, vịnh cảnh trượt chân, ngã xoạc cẳng)
  • Câu đối chiết tự (chiết: bẻ gãy, phân tách; tự: chữ): là những câu do sự tách chữ Hán hoặc chữ Nôm ra từng nét hoặc từng phần mà đặt thành câu.
Tự () là chữ, cất giằng đầu, chữ tử () là con, con ai con nấy?
Vu () là chưng, bỏ ngang lưng, chữ đinh () là đứa, đứa nào đứa này?
  • Câu đối trào phúng: là những câu làm để chế diễu, châm chích một người nào đó.
Cung kiếm ra tay, thiên hạ đổ dồn hai mắt lại.
Rồng mây gặp hội, anh hùng chỉ có một ngươi thôi
(Câu đối tặng một người chột mắt mới đỗ khoa thi võ)
  • Câu đối tập cú: là những câu lấy chữ sẵn ở trong sách hoặc ở tục ngữ, ca dao.
Gái có chồng như rồng có vây, gái không chồng như cối xay không ngõng.
Con có cha như nhà có nóc, con không cha như nòng nọc đứt đuôi.
  • Câu đối thách (đối hay đố): người ta còn nghĩ ra những câu đối oái ăm, cầu kỳ rồi người ta tự đối lấy hoặc thách người khác đối. Lối đối này thường sử dụng nghệ thuật chơi chữ, đồng âm dị nghĩa...
Con cóc leo cây vọng cách, nó rơi xuống cọc, nó cạch đến già
Con công đi qua chùa kênh, nó nghe tiếng cồngkềnh cổ lại
(Câu đối có bốn chữ: cóc cách cọc cạch đối với bốn chữ công kênh cồng kềnh)
Có những vế câu đối rất khó đối như:
  • Cha con thầy thuốc về quê, gánh một gánh hồi hương, phụ tử.
Vế này khó đối vì hồi hương (cũng có nghĩa "về quê") và phụ tử (cũng có nghĩa "cha con") đồng thời lại là tên gọi các vị thuốc.
  • Vào vụ đông trường nam bón phân bắc trồng khoai tây, Sang xuân hạ quyết tâm thu hàng tấn củ.
Vế này cũng khó đối vì đông, tây, nam, bắc (chỉ hướng địa lý) và xuân, hạ, thu, đông (chỉ các mùa ở Việt Nam)
  • Da trắng vỗ bì bạch
Vế đối này của Đoàn Thị Điểm, khó ở chỗ “bì bạch” cũng là da trắng, đồng thời cũng là tiếng tượng thanh chỉ âm thanh phát ra khita vỗ vào  nước da trắng của cơ thể. Hiện nay đã có khá nhiều người đối, nhưng chưa chỉnh.

Hôm trước, QV có gửi cho BT5 vế đối “Tết năm Ngựa, cưỡi ngựa đi mua quất, chưa quất, ngựa đã phi”. Đã có mấy bạn đọc đưa ra phương án đối, song nếu soi theo các qui tắc nói trên thì chưa chỉnh. Có một bạn đọc thách lại tác giả bằng câu :” Xuất đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối”. Đây là một dị bản của câu đối đáp với quan giữ ải nước lân bang của cụ Mạc Đĩnh Chi..
Chuyện là năm 1308, Mạc Đĩnh Chi đi sứ nhà Nguyên, do trời mưa làm trở ngại đường đi nên đến cửa khẩu sai hẹn, quân canh gác đóng cửa buộc phải chờ sáng hôm sau mới được qua ải. Thấy sứ bộ Đại Việt cứ biên bạch đòi mở cửa để đi cho kịp thì viên quan phụ trách ải nói: "Nghe nói ngài là người có tài văn chương. Sao không đem sử dụng lúc này? Bây giờ tôi ra một câu đối, nếu đối thông suốt, tôi sẽ mở cửa ải; bằng không xin ngài chờ tới sáng". Rồi quân Nguyên thả từ trên cửa thành cao xuống một câu đối thách thức nếu sứ bộ đối được thì họ sẽ mở của thành cho đi.
Vế ra: 闗遲闗官閉閼過客過闗 Quá quan trì, quan quan bế, át quá khách quá quan (Nghĩa là: “Tới cửa ải chậm trễ, cửa ải đóng, người coi ải đóng cửa không cho khách qua”).
Tình thế xem ra  không ổn,  bởi vì  rõ ràng là người giữ ải không muốn cho khách qua ải lúc tối, chứ không hề có ý mời khách đi qua?! Vế đối có 3 chữ quá và 4 chữ quan, ông suy nghĩ một lát rồi đọc
Vế đối như sau: 先對易對對難請先生先對 Tiên đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối (Nghĩa là: “Ra câu đối dễ, đáp lại khó, xin mời ngài đối trước”).
Vế đối của Mạc Đĩnh Chi có 4 chữ “đối” và 3 chữ “tiên,” đáp đúng với câu đối của viên quan giữ ải. Tưởng sẽ đưa sứ bộ Đại Việt vào thế bí; nào ngờ lại có vế đối quá hay. Quan coi ải vái Mạc Đĩnh Chi hai vái và quân Nguyên mở của ải để sứ bộ của Mạc Đĩnh Chi đi qua biên giới vào giữa đêm.
Trở lại với vế đối “Năm Ngựa đi mua quất”, trong câu này có ba từ ngựa với hai nghĩa khác nhau: tên năm và phương tiện đi , hai từ quất với hai nghĩa khác nhau: cây cảnh Tết và động tác thúc cho ngựa chạy. Từ Ngựa có thể được đối bằng một trong số các con giáp còn lại, nhưng phải tìm đực cách sử dụng nó thêm 2 lần nữa. Từ “quất’ có thể được đối bằng “đao” với 2 nghĩa: cây cảnh Tết và động tác đào bới. Các yêu cầu đối khác cũng cần được xét đến. Một anh bạn đưa ra phương án đối :” Xuân  năm Mão, cử Mão  lấy trộm đào,  chưa đào, Mão đã chạy ”. Về đối thì tạm được nhưng ý không hay (ai lại đi ăn trộm đào chơi Tết). Bản thân tác giả chưa có phương án đối. Xin phép được tư duy thêm.


2 nhận xét:

Nặc danh nói...

Tôn Gia Hóa:
Xuân nhâm ngọ, mua ngựa nấu cao, chưa thành cao đã thành "phở"!

Nặc danh nói...

Giáp Ngọ chứ, thưa Tôn Gia tiên sinh!