Chủ Nhật, 2 tháng 2, 2014

Nguồn gốc và ý nghĩa của chữ “Tết” và “Năm” - ĐỖ THÀNH (ST: QUỐC VIỆT K5)

Mặc dù bài viết cũ, nhưng Tết và Tất Niên bao giờ cũng mới. Xin gửi anh chị em chữ Tểt và Tất Niên có nguồn gốc từ đâu
Bài viết nầy tiếp tục và chứng minh rõ hơn về chữ Việt cổ, và nhân dịp đón xuân Tân Mảo, xin bàn luận về nguồn gốc và ý nghĩa của những từ ngữ của chữ “Tết”, và “Năm”.



*Khảo Cứu Hán _ Nôm : Chử “Tết” hay “Tiết” = 節.
Tết là gì? Tết dương lịch của văn hóa phương Tây quá phổ biến trên toàn thế giới! và dần dần thì câu “Happy new year” ai cũng biết! ở đây, xin nói về tết “Ta”, tết của Âm-Lịch.
Tết âm lịch: tết năm mới, tết nước, tết lúa, tết mùa v v..của Việt, Hoa, Ấn,Thái , Mường, Chăm, khmer v v…
Trước hết, ta xét thấy: tiếng Việt ngày nay gọi là Tết.
“Tết” là danh từ của Lể mừng năm mới của khoảng chừng 1/3 dân số trên thế giới ngày nay : bao Trùm vùng Đông Nam Á, Trung-Hoa, Hàn, Nhật, Ấn, Nepal v v…
-Việt Nam gọi là Tết.
-Trung quốc gọi là Xuân Tiết.
- Thái gọi là Thết/ Thrếts  (trong kinh Lễ Ký, Khổng Tử gọi là Tế-sạ)
- Zhuang gọi là: XIT / SIT
- Nùng:  TẾT
- Muờng :Thết
-Chàm :    TÍT  / kTÊH
-Mon  : kTEH
-Khmer : CHÊTR
- India :    CHETR ( là tên tháng tư và tháng năm của cổ lịch Ấn độ, hai tháng giao mùa đem mưa đến [mois du début de la mousson])
-Nepal :  TEEJ  (lễ đầu năm của Nepal)
-Mustang : TIDJ (lễ đầu năm của xứ Mustang, sát với xứ Nepal)
-Munda : TEEJ (lễ ăn mừng mùa mưa đến / the ancient melodies of Teej , marking the return of the monsoon and the promises of prosperity [National Geographic magazine] )
( tài liệu online: Cám ơn tác giả “Vô danh” )
Vậy, So sánh phong tục đón tết và ngôn ngữ thì thấy có rất nhiều ngôn ngữ đều có Tết/Tiết/Thết/Tít/Xít v v…
Qua Khảo cứu với chứng cứ và tài liệu, Bằng chữ viết và ngôn ngữ học, thêm vào các môn khoa học khác nữa với văn hóa phong tục v v…, thì thấy rằng “Tết” là có cội nguồn và ý nghĩa của văn hóa Việt. Bỡi các lý do sau đây:
- Chữ Viết cổ xưa nhất là “Giáp cốt văn” đã vẽ hình “cây lúa có hạt lúa chín", khi nói về “Năm”/ 1 năm-Tết; Tết – năm gắn liền với cây lúa. (và Cổ Việt tộc được lịch sử phương Đông và phương Tây công nhận là tộc biết cấy lúa sớm nhất trên thế giới.)
- Khoảng 2000 năm trước, Hứa Thận đã giãi thích chữ “Niên” là “Lúa chín" trong sách “Thuyết Văn”.
- Chữ “Tết” hay Tiết hay Tít v v…đều có cùng phát âm giống gần gần nhau và có ý nghĩa rỏ ràng chỉ giãi thích được 1 cách cụ thể bằng chữ và nghĩa của tiếng Việt. (Chữ Việt cổ là chữ Tượng hình, không phải là chữ viết theo mẩu tự La-Tin như ngày nay.)
- Ngày của Tết, tên của tết-ý nghĩa, phong tục và lể hội đón tết gắng liền với văn hóa lúa nước.
Xin mời quí vị xem rỏ chi tiết của  chữ “Tết” như sau:
Tết còn là “節-Tiết”/(Trong hiện tại).
-Tiếng Bắc kinh đọc là “節-chẻ”.
-Tiếng Quảng Đông và Thượng Hải đọc là “節-chit”
-Tiếng Triều Châu đọc là “節-chôi”.
-Tiếng Nùng : Tết/Choang đọc là: 節-Xit ( Nùng - Choang có liên hệ mật thiết huyết thống và ngôn ngữ)
-Quảng Âm (Thời Đường và Tống –“Quảng đại quần chúng đọc âm nầy”) đọc là: 節-Tết.
Chữ “節-Tết” ngày xưa: khoảng 2000 năm về trước đọc là “節-Tết”, chứ không đọc là “節-tiết”; Thời nhà Hán cũng đọc là : “節-Tết”. cho nên phiên thiết bằng cách viết là “子結切-Tử kết thiết = “節-Tết”.
-xem bằng chứng trong sách “thuyết văn” của 2000 năm trước:
Sách Thuyết Văn: 2865 節 竹  竹約也。从竹即聲。 子結切.
(Sách Thuyết Văn: số thứ tự 2865 : 節-Tết 竹-Trúc 竹約也-Trúc Ước Dã. 从竹即聲-Tùng Trúc Tức thanh. 子結切-Tử Kết Thiết)/ (Phiên dịch: Tết; là “Trúc”/ cây Trúc ( được) thắt hay bó lại vậy (Được “chiết” ra để trồng), viết theo bộ Trúc-竹, đọc theo thanh “Tức-即” phiên thiết: 子結-Tử Kết =節-Tết).
Nghĩa là:
- “Ước-約” hay Tước, hay Tách, triết, chiết, trẻ, chẻ, trích, tét, tếch, “tết” cây Trúc ra để mà trồng thì gọi là “節-Tết”.

Không có nhận xét nào: