Tôi không nhớ mình đã viết bao
nhiêu bài báo, nhưng chưa bao giờ cảm thấy bắt đầu một bài viết nào khó như bài
viết này. Viết về 1 câu chuyện tình yêu trong chiến tranh, viết về 1 người lính
đã biết trước cái chết của mình, viết về 1 người đàn bà chỉ có 7 ngày làm vợ
nhưng đã có 1 đời làm “hòn vọng phu” – tôi thực sự bối rối vì không biết làm
thế nào để có thể kể lại câu chuyện đó, đúng như những gì tôi đã được nghe và cảm
thấy….
Có một người cựu chiến binh từng nói với tôi rằng: “Nếu có dịp đến
thành cổ, cháu hãy bước đi thật nhẹ nhàng. Mỗi tấc đấc ở đó đều có xương máu
của đồng đội bác”. Người cựu chiến binh ấy, là một trong số không nhiều những
người lính đã may mắn trở về an toàn, lành lặn sau những ngày đêm chiến đấu để
bảo vệ từng mét vuông đất ở thành cổ Quảng Trị. Lần nào đến thành cổ, ông cũng
quỳ xuống đất và khóc. Ông đã thắp rất nhiều nén hương trên khắp thành cổ mỗi
năm trở lại đây, trong suốt nhiều năm đã trôi qua của cuộc đời ông, nhưng thắp
bao nhiêu nén hương, ông cũng cảm thấy chưa đủ. Ông đã chứng kiến quá nhiều
đồng đội của ông đã ngã xuống ở tuổi 20, có người vừa mới lấy vợ, có người chưa
từng biết yêu. Với những người lính như ông, thành cổ là một vùng đất thiêng,
là một miền tâm linh không ai được phép xâm phạm: ở nơi đó, ông và những đồng
đội của mình đã thấm thía hơn bao giờ hết cái giá phải trả cho hạnh phúc và tự
do. Ở nơi đó, có những câu chuyện về những người lính đã ngã xuống mãi mãi trở
thành huyền thoại.
Một câu chuyện huyền thoại ở thành cổ
Tôi đến thăm thành cổ Quảng Trị
vào một chiều tháng 7 . Chiều hôm đó, khi người hướng dẫn viên khu di tích
thành cổ quảng Trị đọc bức thư kỳ lạ ấy, tất cả những người trong đoàn khách
ghé thăm thành cổ đều rơi nước mắt. Đó là bức thư của một người lính đã hi
sinh, được anh viết trước khi mất 3 tháng, giữa những ngày bom đạn khốc liệt
nhất ở Quảng Trị. Anh là liệt sỹ Lê Văn Huỳnh, quê ở xã Lê Lợi, huyện Kiến
Xương, tỉnh Thái Bình. Bức thư đó, anh gửi cho người mẹ già đang chờ đợi anh ở
quê nhà, gửi cho người vợ mà anh mới cưới được 7 ngày đã phải chia tay để lên
đường nhập ngũ và rồi mãi mãi không trở về. Trong bức thư đó, anh viết:
“Quảng Trị, ngày 11/9/1972
Toàn gia đình kính thương!
Hôm nay con ngồi đây biên vài
dòng chữ cuối cùng, phòng khi đã “đi ngiên cứu bí mật trong lòng đất”, thì gia
đình khỏi thấy đó là điều đột ngột.
Mẹ kính mến! Thư này tới mẹ là
con đã đi xa rồi. Chắc mẹ đau buồn lắm. Lớn lên trong vòng tay mẹ từ khi còn trứng nước, chưa
kịp báo đáp công ơn sinh thành, giờ con đi xa là để lại cho mẹ nỗi buồn nhất
trên đời.
Con rất hiểu đời mẹ đã đau khổ
nhiều, nhưng mẹ hãy lau nước mắt để sống đến ngày đón mừng chiến thắng. Con đi, mẹ ở lại trăm tuổi bạc đầu. Coi như
con lúc nào cũng nằm bên mẹ. Coi như con đã sống trọn đời cho Tổ quốc mai sau…
Em yêu thương. Mọi lá thư đến với
em đều là nguồn động viên em khi xa anh. Song, lá thư này đến tay em sẽ là nỗi buồn lớn nhất. Chúng ta
sống với nhau chưa được bao lâu, thì chiến tranh đã cướp đi của em biết bao yêu
thương, trìu mến. Người ta lấy chồng thì được chiều chuộng mọi điều. Em chưa
được hưởng diễm phúc ấy đã phải xa anh….
Em thương yêu! Nhận tin này em
hãy báo tin cho người bạn của anh, mà ngày đó có dịp về chơi. Địa chỉ: Hoàng
Khắc Chiến, xóm Chính, thôn Hoằng Trì, xã Hoàng Thăng, Hoằng Hóa, Thanh Hóa.
Nội dung: Huỳnh đã hy sinh ngày 2/1/1973 (tức ngày 28/11 âm lịch).
Anh biết em sẽ không đọc nổi lá
thư này, nhưng em hãy gạt nước mắt đi cho đời trẻ lại. Anh chỉ mong em khỏe,
yêu đời, nếu có điều kiện, hãy cứ đi bước nữa, vì em còn trẻ lắm. Anh chỉ mong
em sẽ luôn nhớ đến anh và hãy thắp hương cho anh vào ngày giỗ anh. Hãy là người
con dâu hiếu thảo của mẹ, là người em ngoan của của các anh chị anh. ..
Sau này hòa bình lập lại, nếu có
điều kiện vào Nam, hãy mang hài cốt anh về. Đường đi như sau: Đi tàu vào thị xã
Quảng Trị, qua sông Thạch Hãn là nơi anh đã hi sinh khi đưa hàng qua sông vào
ngày 2/1/1973. Từ thị xã qua cầu, ngược trở lại, hỏi thăm thôn Nhan Biều. Em cứ
đi đến đó, tính xuôi theo dòng nước thì ở cuối làng. Đến đó sẽ tìm thấy tấm bia
ghi tên anh đục trên mảnh tôn. Mộ anh ở đó…Em sẽ đọc lá thư này cho mọi người
trong gia đình nghe trong buổi lễ truy điệu anh. Cho anh gửi lời chúc sức khỏe
tất cả những người quen thuộc trên quê hương trong buổi truy điệu lịch sử này….
Chào mẹ, chào em, chào tất cả gia
đình và làng xóm quê hương.
Ký tên
Lê Văn Huỳnh…..”.
Có một người cựu chiến binh Mỹ
khi được người phiên dịch dịch cho nghe lại toàn bộ bức thư này đã lấy tay quệt
nước mắt và thốt lên: “Giờ thì tôi đã hiểu vì sao các bạn chiến thắng. Các bạn
đã biết trước tất cả”.
Lá thư này được liệt sĩ Lê Văn
Huỳnh, chàng sinh viên năm cuối của trường Đại học Xây Dựng, viết vào một ngày
tháng 9/1972, trước ngày anh hi sinh hơn 3 tháng. Không ai hiểu vì sao anh có
thể biết trước một cách tường tận đến thế về cái chết của anh: anh sẽ hi sinh
như thế nào, vào ngày tháng năm nào, đồng đội sẽ chôn anh ở đâu sau khi anh nằm
xuống… Anh biết trước tất cả điều đó và đón nhận nó bình thản như đón nhận sứ
mệnh của cuộc đời mình. Có nhiều người nói rằng anh đã biết trước cái chết đó
và chọn cái chết đó. Nhưng tôi nghĩ rằng, anh đã biết trước cái chết đó và dấn
thân vào nó, nhưng không phải anh chọn cái chết đó. Cái mà người lính ấy đã
chọn – như chính lời anh nói – là được “sống trọn đời cho Tổ quốc mai sau”. Dù anh biết, sự lựa chọn
đó, có nghĩa là anh phải mãi mãi xa người mẹ già ngóng đợi anh từng ngày ở quê
nhà, xa người vợ hiền mà anh chỉ được ở bên cạnh vỏn vẹn có 7 ngày.
Phải 3 năm sau ngày anh mất, lá
thư này mới đến tay gia đình anh. Vợ anh – người phụ nữ mới có 7 ngày làm vợ -
đã ở vậy suốt một đời. Chị đã giữ lá thư này như một báu vật linh thiêng của
cuộc đời chị. Gần 30 năm sau, chỉ đến tận khi tìm thấy mộ anh, chị mới giao bức
thư này cho Ban Quản lý Khu di tích Thành cổ Quảng Trị. Kể từ đó, câu chuyện
của anh chị - câu chuyện về bản thân lá thư đó và hành trình kỳ lạ của nó – đã trở
thành một câu chuyện huyền thoại và được nhắc lại ngày ngày ở thành cổ linh
thiêng.
7 ngày làm vợ, 1 đời vọng phu
Trong chuyến đi công tác miền
Trung dài ngày, tôi đã thực sự bị ám ảnh bởi lá thư ấy. Tôi đã nghĩ khi về Hà
Nội, tôi nhất định sẽ đi tìm chị - người phụ nữ trong bức thư của người liệt sỹ
đã nằm xuống ở thành cổ. Tôi rất muốn được nghe câu chuyện của cuộc đời chị, muốn
được hỏi chị rằng, điều gì đã diễn ra trong lòng chị khi nhận được lá thư ấy? Tôi
rất muốn biết, vợ của người liệt sỹ ấy đã sống thế nào trong suốt những năm
tháng qua. Và muốn biết những hành trình mà chị đã đi qua – theo lời anh để lại
– để tìm lại mộ anh ở một khu vườn nhỏ cuối thôn Nhan Biều, bên dòng sông Thạch
Hãn.
Chị Lê Thị Xơ – vợ liệt sỹ Lê Văn
Huỳnh giờ vẫn sống ở xã Lê Lợi, huyện Kiến Xương, Thái Bình. Chị ở trong ngôi
nhà tình nghĩa mà một đơn vị ở Tp. HCM đã xây tặng chị. Trong ngôi nhà đó, chị
vẫn thờ chồng bao nhiêu năm nay. Bức ảnh liệt sỹ Lê Văn Huỳnh, chồng chị, đặt
trên bàn thờ, là bức ảnh duy nhất mà chị có – bức ảnh anh chụp cùng bạn bè khi
còn là chàng sinh viên năm đầu của trường Đại
học Xây dựng. Nó đã được chị tách ra và trở thành bức ảnh thờ của anh
bây giờ.
Ngày ấy, chuyện tình của anh chị
là câu chuyện tình đẹp ở xã Lê Lợi. Anh là chàng sinh viên Đại học Xây dựng
thông minh, học giỏi. Chị là một trong những cô gái đẹp nhất làng, được không
biết bao người theo đuổi. Nhưng trong những người đàn ông theo đuổi chị, chị đã
chỉ chọn anh và chỉ yêu anh. Anh chị yêu nhau suốt những năm anh đang là sinh
viên trường Xây dựng. Gia đình anh giục cưới không biết bao nhiêu lần, nhưng
chị đều lần nữa. Chị không muốn anh sớm phải lo lắng chuyện vợ con, vì sợ anh
bị chi phối chuyện học hành. Nhưng dịp nghỉ Tết Dương lịch năm 1972, anh về
thăm nhà và thông báo với chị: anh chuẩn bị lên đường nhập ngũ. Anh chị đã
quyết định cưới nhau chỉ trong vài ngày nghỉ lễ ngắn ngủi ấy. Đám cưới được tổ
chức gấp gáp, đơn giản, nhưng vui vẻ vào ngày 2/1/1972. Sau ngày cưới, anh được ở nhà 3 ngày rồi tiếp
tục lên trường học. Tết Nguyên đán năm đó, anh được nghỉ và về nhà thêm 3 ngày
nữa là 6. Trước ngày anh lên đường nhập ngũ, anh tranh thủ về nhà được 1 ngày rồi
vĩnh viễn không bao giờ trở về. Tính từ ngày cưới cho đến lúc anh hi sinh, vợ
chồng anh chị ở bên nhau trọn vẹn được 7 ngày, 7 đêm.
Anh chị cưới nhau vội vàng, đến
tấm ảnh cưới cũng không kịp chụp. Chị kể: “Trước khi anh lên đường vào chiến
trường, tôi đã nói: “Anh chụp một cái ảnh kỉ niệm với gia đình và với em, để
sau này những lúc nhớ anh, em sẽ nhìn ảnh anh cho đỡ nhớ”. Nhưng anh gạt đi.
Anh bảo : Anh chẳng bao giờ chụp ảnh, trước khi vào chiến trường tự dưng đi
chụp thì e sẽ là điềm gở. Anh đi rồi anh sẽ về. Ngày anh về, em sẽ được nhìn
thấy anh bằng xương bằng thịt, ngày hôm đó, mình sẽ đưa nhau đi chụp ảnh”. Sau
này vào chiến trường Quảng Trị, trong một lá thư viết về cho chị, anh đã nói:
“Anh cứ ân hận vì không chụp với mẹ và với em bức ảnh nào làm kỉ niệm. Chiến
trường khốc liệt quá. Anh sợ anh đi mà chẳng có ngày về, thì em sẽ chẳng còn gì
để nhớ gương mặt anh. Anh gửi cho em tấm ảnh anh chụp với người bạn, em chịu
khó tách ra. Những lúc nhớ anh hãy mang ảnh anh ra ngắm, coi như anh đang ở bên
em….”. Đến tận bây giờ, đó vẫn là tấm ảnh duy nhất của anh mà chị có.
Lần cuối cùng gặp nhau, anh đã
nắm tay chị dặn dò: “Mình đã là vợ chồng. Anh đi chiến đấu, sau này ngộ nhỡ anh
trở về không lành lặn, xin em đừng hắt hủi anh, em nhé”. Chị nghe anh nói mà ứa
nước mắt: “Dù anh có thế nào đi chăng nữa, em vẫn là vợ của anh trọn đời”.
Nhưng chị không bao giờ ngờ rằng, ngay cả việc được đón anh trở về, dù không
lành lặn, cũng trở thành một ước mơ quá đỗi xa xỉ đối với cuộc đời chị. Sau
ngày nhập ngũ, anh theo đơn vị vào chiến trường Quảng Trị, chiến trường khốc
liệt nhất những năm 1972 – 1973. Và anh đã mãi mãi nằm lại nơi đó, không bao
giờ trở về để cùng chụp chung bức ảnh vợ chồng với chị như anh đã hứa.
Trong những lá thư anh gửi về từ
chiến trường, bao giờ cũng có một phần gửi mẹ, một phần gửi cho các anh chị
trong nhà, một phần viết riêng cho chị. Thư anh luôn lạc quan, luôn tếu táo và
rất đỗi dịu dàng, nhưng trong những lá thư đó, anh không bao giờ giấu chị về
chiến trường khốc liệt, không bao giờ giấu chị một sự thật rằng: mỗi lá thư anh
gửi cho chị, đều có thể là lá thư cuối cùng mà chị nhận được. Trong những lá
thư ấy, dường như anh luôn tiên cảm về một điều gì đó đợi anh ở phía trước nên
thường nói về những điều rất đỗi xa xôi. Lần nào đọc thư anh, chị và mẹ anh
cũng khóc. Có lần trong thư gửi chị, anh viết: “Anh chỉ ước có một đêm anh bất
ngờ trở về thăm nhà lúc em đang ngủ. Anh sẽ bước thật nhẹ đến bên giường em,
hôn thật dịu dàng lên trán em và ngắm nhìn em ngủ suốt một đêm. Những lúc nhớ
anh, em hãy lắng nghe tiếng gió. Lúc nào thấy tiếng gió xào xạc thổi, nghĩa là
anh đang theo gió về bên em”.
Chị nhận được thư anh đều đặn mỗi
tháng. Nhưng sau lá thứ tháng 12/1972, ông bưu tá vẫn đạp xe mang thư về làng
không bao giờ dừng lại ở trước cửa nhà chị nữa. Cũng từ đó chị mất tin anh. Chị
kể: “Đầu năm 1973, có người lính cùng xã đã viết thư về cho gia đình, kể rằng
đã gặp chồng tôi ở bên sông Thạch Hãn, khi anh ấy làm nhiệm vụ đưa hàng và đơn
vị bộ đội kia vượt sông vào Nam. Người đó viết rằng đêm hôm đó chồng tôi đã bị
thương và dường như đã hi sinh. Khi lá thư ấy gửi về, tin tức truyền đi, làng
trên xóm dưới bắt đầu xì xào về cái tin chồng tôi không còn nữa. Tôi gặng hỏi
mẹ, gặng hỏi các anh chị, gặng hỏi cả những người làng vẫn thỉnh thoảng hỏi
thăm tôi tin tức về chồng tôi rồi chép miệng thở dài bóng gió, xa xôi. Không
một ai nói cho tôi bất cứ điều gì. Dẫu vậy, tôi vẫn cảm nhận được có sự chẳng
lành khi không nhận được thư anh như những tháng trước đây”.
Suốt quãng thời gian phập phồng
chờ tin chồng, ban ngày đi làm ở hợp tác xã thì không sao, nhưng cứ chiều về là
chị lại ngồi ở góc sân khóc một mình. Trái tim người vợ mách bảo chị về những
điều không lành, những điều mà chị chẳng dám nói ra với bất cứ ai nhưng vẫn
hiểu nó đang ngày càng trở nên hiện thực đối với cuộc đời chị. Sau Tết Nguyên
đán năm đó thì giấy báo tử của anh về đến xã. Sợ chị không chịu nổi cú sốc đó,
nên người chị dâu của chị, khi đó đang làm ở ủy ban xã, đã xin hoãn bão tử 3
tháng. Đến tháng 5/1973, giấy báo tử mới chính thức được gửi về nhà chị, cùng
toàn bộ quân tư trang của anh. Chị kể: “Chiều hôm đó, khi tôi đang làm việc ở
hợp tác, có người ra gọi tôi bảo về ngay, mẹ chồng ốm nặng. Tôi òa khóc vừa
chạy về vừa nói: “Không phải mẹ ốm đâu. Em biết mà. Có giấy báo tử của anh
Huỳnh rồi đúng không?....”. Lúc chị về đến nhà, mọi sự đã được chuẩn bị đâu vào
đó. Di ảnh của anh, cùng toàn bộ quân tư trang của anh đã được đặt lên bàn thờ.
Chị gục xuống bên những kỷ vật cuối cùng anh để lại, lặng người đi nghe cán bộ
xã đọc giấy báo tử của anh. Anh hy sinh vào đúng ngày 2/1/1973, đúng ngày kỉ
niệm tròn 1 năm ngày cưới của hai anh chị.
Ngày 2/1/1972, chị là cô dâu đẹp
nhất và hạnh phúc nhất.
Ngày 2/1/1973, anh trở thành liệt sỹ. Những
ngày 2/1 mỗi năm sau này, trong suốt mấy chục năm qua, đều là những ngày buồn
nhất trong cuộc đời chị.
Hành trình tìm lại mộ chồng qua bức thư nhuốm màu huyền thoại
Dù đơn vị của anh đã gửi kèm toàn
bộ quân tư trang của anh về cùng với giấy báo tử của anh. Nhưng riêng lá thư
định mệnh mà anh viết vào ngày 11/9/1972, thì phải đến tận 3 năm sau, chị mới
nhận được. Lá thư đó anh gửi riêng cho một người đồng đội, dặn mang trực tiếp
về Kiến Xương, trao lại cho gia đình anh, cho mẹ anh và cho chị. Gia đình anh
đã không cho chị đọc lá thư đó trong suốt 4 năm trời, dù chị hết ngày này qua
tháng khác cầu xin được đọc nó. Tất cả mọi người đều sợ rằng lá thư đó sẽ vượt
quá sức chịu đựng của chị. 4 năm sau, khi nghĩ rằng mọi chuyện đã nguôi ngoai,
người chị dâu của anh mới đem lá thư ấy trao tận tay chị. Nhưng dù là ngày hôm
đó, hay suốt nhiều năm sau này, mỗi lần lật giở trang thư của anh, nhìn thấy
những dòng chữ cuối cùng và lời vĩnh biệt của anh, việc duy nhất mà chị làm là
òa khóc.
Suốt bao nhiêu năm kể từ ngày đó,
những dòng chữ anh viết trong bức thư ấy vẫn ám ảnh chị: “Sau này hòa bình lập
lại, nếu có điều kiện vào Nam, hãy mang hài cốt anh về. Đường đi như sau: Đi
tàu vào thị xã Quảng Trị, qua sông Thạch Hãn là nơi anh đã hi sinh khi đưa hàng
qua sông vào ngày 2/1/1973. Từ thị xã qua cầu, ngược trở lại, hỏi thăm thôn
Nhan Biều. Em cứ đi đến đó, tính xuôi theo dòng nước thì ở cuối làng. Đến đó sẽ
tìm thấy tấm bia ghi tên anh đục trên mảnh tôn. Mộ anh ở đó…”. Vì những dòng
chữ ấy, chị đã ở vậy suốt đời, giữ trọn lời thề thủy chung với anh như lời chị
đã hứa trước ngày anh ra trận. Vì những dòng chữ ấy, mà dù có bao nhiêu người
theo đuổi, đặt vấn đề tiến tới hôn nhân, chị vẫn không thể nào rung động thêm,
dù chỉ một lần. Trong lòng chị, trong suốt những năm tháng đó, chỉ có một ý
nghĩ duy nhất: đi tìm mộ anh về, hoàn thành tâm nguyện cuối cùng của anh.
Những năm tháng chưa tìm được mộ
anh, là những năm tháng mà mỗi ngày trôi qua, chị đều không thể có một giấc ngủ
trọn vẹn và bình yên. Đêm nào chị cũng choàng tỉnh, cũng giật mình khi nghe
tiếng gió xào xạc trong vườn. Những lúc đó chị đoán anh đang về với chị, để rồi
lại bật khóc khi nhận ra rằng chị vẫn chưa thể tìm được mộ anh, hoàn thành di
nguyện cuối cùng của anh.
Rất nhiều người bán tín bán nghi
về lá thư anh để lại. Họ không tin những tiên cảm về cái chết của anh. Nên năm
lần bảy lượt chị định đi tìm mộ anh, mọi người đều ngăn lại. Họ sợ chị kiệt sức
vì đau đớn trên đường đi. Họ sợ chị sẽ gục ngã nếu những lời trong bức thư đó
không đúng là sự thật. Nhiều người trong gia đình chị đã cầm bức thư ấy, đi vào
Quảng Trị, thay chị tìm mộ anh. Nhưng tất cả họ đều nói không có ngôi mộ nào
ghi tên Lê Văn Huỳnh nằm ở cuối thôn Nhan Biều như lời anh để lại trong bức
thư. Dẫu là vậy, trong thâm tâm chị, chị vẫn tin những lời anh viết trong bức
thư là sự thật, dù chính chị cũng không thể giải thích được tại sao nó lại là
thật. Là một người vợ, chị chỉ biết tin vào những lời cuối cùng mà chồng mình
để lại.
Những cuộc tìm kiếm sau đó của
chị và gia đình đều không mang lại kết quả khả quan, nhưng chị chưa bao giờ có
ý định bỏ cuộc. Năm 2002, chị thực hiện cuộc tìm kiếm cuối cùng. Lần đó, chị đã
đi theo đúng những lời chỉ dẫn để lại trong bức thư: Đi tàu vào thị xã Quảng Trị, qua sông Thạch,
từ thị xã qua cầu, ngược trở lại, hỏi thăm thôn Nhan Biều. Tính xuôi theo dòng
nước. Ở cuối làng…..
Những lời chỉ dẫn của anh đã dẫn
chị đến một vườn sắn um tùm. Người chủ vườn sắn nghe được câu chuyện của chị đã
đưa chị đến cuối khu vườn. Ở đó, tấm bia làm bằng mảnh tôn, khắc tên “Liệt sỹ
Lê Văn Huỳnh. Hy sinh ngày 2/1/1973” nằm nguyên vẹn ở đó, đúng như lời anh đã
nói trong thư.
Chưa kịp mừng rỡ vì tìm thấy tấm
bia khắc tên chồng, nỗi lo âu đã ngập tràn lòng chị, khi người chủ vườn sắn
nói: “Rất nhiều đơn vị đã đến đây tìm mộ, đào đi xới lại hết khu vườn này. Toàn
bộ hài cốt liệt sỹ trong khu vườn này đã được chuyển đi cách đây vài năm. Chỗ
có tấm bia đó, người ta cũng đã đào, nhưng không tìm thấy ngôi mộ nào cả. Tuy
thế, vì tâm linh, tôi vẫn để tấm bia đó ở nguyên vẹn đó”.
Lúc ấy, dù hi vọng chỉ còn mong
manh, nhưng chị vẫn kiên quyết không bỏ cuộc. 2 ngày tìm kiếm đầu tiên trôi qua
hoàn toàn không có bất cứ kết quả nào. Thương chị, người chủ vườn sắn đã chấp
nhận hi sinh cả vườn sắn để cho chị tìm mộ chồng. Nhưng cả đoàn người đào hết
khoảng đất này đến khoảng đất kia mà vẫn vô vọng. Chị mời cả thầy cúng, sử dụng
cả những phương pháp tâm linh mà người ta vẫn làm khi đi tìm mộ mà vẫn không
thấy mộ anh. Ngày thứ 3, chị gần như đã tin rằng, mộ anh có thể đã được quy tập
đưa về một nghĩa trang nào đó. Và anh có thể đang nằm đâu đó trong những nghĩa
trang ở Quảng Trị, dưới một ngôi mộ liệt sỹ vô danh. Khi ấy có 1 người trong
đoàn đã hỏi chị: “Nếu tình huống xấu nhất là không tìm thấy mộ anh Huỳnh, chị
sẽ tính sao”, chị trả lời mà nước mắt trào ra: “Có những người mẹ, người vợ
liệt sỹ sang tận Lào tìm mộ con, tìm mộ chồng mà chỉ mang về được 1 nắm đất
tượng trưng. Tôi có tấm bia khắc tên anh ấy mang về, thế đã là đủ hạnh phúc và
mãn nguyện rồi”.
Lúc ấy chị đã cầu khấn anh: “Em
sắp kiệt sức và tuyệt vọng rồi. Nếu anh linh thiêng, hãy cho em được tìm thấy
anh và được đưa anh về quê mình”. Sau lời cầu khấn của chị, một người trong
đoàn đã thuổng vào đúng mộ anh. Những quả bom rơi xuống khu vườn này đã lấp vùi
dần mộ anh, khiến mộ anh bị vùi dưới lớp đất sâu. Đó là lý do vì sao, những đơn
vị đi tìm mộ đã đến đây tìm kiếm không ít lần mà không phát hiện được mộ anh ở
đó. Số phận có những sắp đặt thật kỳ lạ. Có lẽ anh đã chủ động chọn cho mình sự
sắp đặt này, để đợi đến ngày chị tìm thấy anh, đón anh về, sau gần 30 năm trời
xa cách.
Chị vẫn nhớ cái cảm giác run rẩy
và hạnh phúc đến nghẹn ngào của chị khi chị được tận tay gói bộ hài cốt của anh
vào trong tấm vải để mang về quê. Giây phút ấy, chị đã ôm lấy tấm vải đựng hài
cốt anh, cứ như là chị đang ôm anh như 30 năm về trước. 30 năm rồi, sau ngày
anh lên đường nhập ngũ rồi hy sinh, chị mới được ôm anh như thế.
Giờ thì chị đã đưa anh về yên
nghỉ ở nghĩa trang liệt sỹ ở quê nhà và vẫn đều đặn đến thắp hương trên mộ anh.
Lá thư định mệnh mà anh gửi cho chị - lá thư đã giúp chị tìm được mộ anh – đã
được chị tặng lại cho Khu Di tích Thành cổ Quảng Trị. Lá thư đó đđang được nhắc
lại mỗi ngày ở thành cổ. Nhờ đó mà rất nhiều người, trong đó có tôi, khi ghé
thăm thành cổ, mới được biết đến lá thư linh thiêng và xúc động đó.
Có một câu thơ của nhà thơ Nguyễn
Khoa Điềm trong bài thơ “Đất nước” mà tôi vô cùng yêu thích:
“Có biết bao người con gái, con
trai
Trong bốn ngàn lớp người giống ta
lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước…”.
Khi nghe câu chuyện về liệt sỹ Lê
Văn Huỳnh, là lúc tôi thấy mình hiểu hơn bao giờ hết những câu thơ ấy…
12 nhận xét:
Hương ạ, riêng khóa 5 Trỗi của chú có 3 chú nằm lại tại Thành cổ:
- Chú Vũ Kiên Cường (con trai đại tá tình báo hoạt động ở Thái) hy sing khi quanh mép mới lún phún lông tơ, bị trúng đạn vào đầu. Chú Lê Bình (bạn chú, vừa mất tháng trước) đưa bạn vào Dinh Tỉnh trưởng rồi chắp tay vái mà không hương không khói: "Có lệnh rút, tao ra phải để mày nằm lại. Tao thề sẽ trả thù cho mày". Sau này gia đình nhờ ngoại cảm tìm thấy mộ vô danh của chú Cường ở NTLS Ái Tử.
- Chú Nguyễn Lâm (con trai cụ Hoàng Hữu Kháng người theo bảo vệ Bác trong kháng chiến chống Pháp) cùng E95 cũng hy sinh, 40 năm nay chưa tìm thấy mộ phần.
- Chú Trịnh Thúc Doanh (bố là chủ nhiệm 1 khoa của Viện 108, anh trai là bác Trịnh Nguyên Huân giờ làm ở Văn phòng Đại tướng) hy sinh đêm thứ 81, đêm cuối cùng khi được lệnh rút. Địch bao vây 3 bề, được lệnh rút, vừa nhảy xuống sông Thạch Hãn thì trúng viên đạn lạc, vậy là mất tích, đồng đội mò quanh không thấy xác rồi phải bơi qua sông:
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm.
Gia đình chú Doanh tìm hoài chả thấy, mẹ chú lấy nắm đất ở bờ sông Thạch Hãn mang về HN đưa vào NTLS Định Công, đốt cùng áo bông Trỗi, làm 1 ngôi mộ gió.
Còn lính Trỗi hy sinh năm 1972 ở Quảng Trị quãng chục người.
Cảm động khi đọc bài viết của cháu. Cảm ơn Hương!
Vợ chú Huỳnh xứng đáng là nữ anh hùng, Hương ạ!
Một bài rất cảm động, nhận xét hay.
Mấy lần cháu còm chẳng được, hôm nay không được nữa chắc cháu chịu luôn dù không còm cũng thấy thiêu thiếu khi đọc bài viết hay thế này !
Lần vừa rồi chú chặn tích cực bọn xấu đấy mà. Nếu lại bị phá sẽ phải mời từng người thân của BT5, yên trí đi!
Tôi đã mấy lần đăng NX ở bài viết về ông trần xuân Bách, nội dung đứng đắn. kg hề chê bai hay kê kích, vậy mà khi post NX, nó bảo để kiểm tra lại rồi sẽ cho đăng tin, đợi mãi đến hôm nay cũng chẵng thấy tin của mình, chắc tôi là kẻ xấu !!!
Sao BT5 không nhận được, T ạ?
Bài viết rất hay, đọc xong tự nhiên thấy buồn vì mấy fan Kpop đang gây xôn xao trên mạng mấy ngày nay
Bài viết sâu sắc và cảm động.
Chẳng biết cơ chế hoạt động của hệ thống thông tin tâm linh thế nào, nhưng trường hợp này quả là kỳ diệu. Mình tin những gì được viết trong bài này vì đã trực tiếp chứng kiến việc liệt sỹ làm thơ (đã chia sẻ trong bài "Những vần thơ gửi từ cõi tâm linh" đăng trên BT5 và có trong SRTKL4). LS Huỳnh thật đáng kính nể vì anh đã biết những thông tin như vậy nhưng vẫn bình thản đối mặt, chấp nhận hy sinh. Xin thắp một nén tâm nhang tưởng nhớ đến LS Huỳnh và bao AH LS khác đã hy sinh vì dân, vì nước.
Chuyện mấy fan Kpop chẳng là gì mà đáng làm ta buồn. Gốc rễ của vấn đề là ở lỗi hệ thống. Bao chuyện khác còn đáng quan tâm hơn nhiều.
Mình cũng chả quan tâm đến mấy vụ nhảy nhót dớ dẩn ấy. Cứ để cuộc sống nó tự chỉnh, bạn ạ.
Đăng nhận xét