Cống Quỳnh
tên thật là Nguyễn Quỳnh, ông từng thi đỗ Hương Cống nên còn gọi là Cống Quỳnh.
Do ông giỏi hài hước nên dân gian thường đồng hóa
ông với Trạng Quỳnh - một nhân vật dân gian nổi tiếng với những mẩu chuyện trào
lộng.
Ban giám khảo. |
Nguyễn Quỳnh (1677-1748) là một danh sĩ thời Lê - Trịnh. Ông còn có tên Thưởng, hiệu Ôn Như, thụy Điệp Hiên, quê tại làng Bột Thượng, xã Hoằng Lộc, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Thuở nhỏ, ông học với ông nội và cha (vốn là giám sinh ở Quốc Tử giám). Năm 19 tuổi đi thi Hương ông đỗ đầu bảng Hương Cống, nhưng đi thi Hội nhiều lần bị hỏng.
Triều đình bổ nhiệm ông làm Giáo thụ các huyện Thạch Thất, Phúc Lộc (Sơn Tây), rồi Huấn đạo (chức quan coi việc học ở cấp phủ thời Lê) phủ Phụng Thiên ở kinh thành Thăng Long, vào đời vua Lê Dụ Tông. Khoa thi năm Mậu Tuất 1718, thời chúa Trịnh Cương, ông đỗ hạng ưu kỳ thi Sỹ vọng, được thăng làm tri phủ Thái Bình, rồi về làm Viên ngoại lang (một chức thư ký, chẳng có quyền hành gì) ở Bộ Lễ; sau bị giáng xuống chức Tu soạn ở Viện Hàn lâm, hàm Chánh bát phẩm (tụt xuống 3 bậc).
Lều chõng. |
Thí sinh dùng cơm trưa. |
Tuy không đỗ cao,
nhưng Nguyễn Quỳnh vẫn nổi tiếng là người học hành xuất sắc. Sách “Đăng khoa
lục sưu giảng” của Tiến sĩ Trần Tiến (quan Thượng thư triều Lê, người làng Điền
Trì, huyện Chí Linh, nay là huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương) có ghi: “Tuấn Cung,
Tuấn Dị, thiên hạ hữu nhị. Nguyễn Quỳnh, Nguyễn Nham, thiên hạ vô tam”. (Tuấn
Cung, Tuấn Dị, thiên hạ chỉ có hai người. Nguyễn Quỳnh, Nguyễn Nham, thiên hạ
không có đến người thứ ba).
“Nam thiên lịch đại
tư lược sử” là quyển sách tóm tắt lịch sử Việt Nam từ Kinh Dương Vương đến hết
Hậu Lê, trong đó có trích một số thơ Nôm của Nguyễn Quỳnh và Nguyễn Thị Điểm
đời Lê Dụ Tông (1705 - 1719), khi nói đến Nguyễn Quỳnh, có một câu đáng chú ý:
“Quỳnh, Hoằng Hóa Bột thái nhân, từ chương minh thế, đàm thuyết kinh nhân,
trường ư quốc âm, thiện ư hí hước”. Nghĩa là: Quỳnh người Bột Thái, Hoằng Hóa,
từ chương nổi tiếng ở đời, nói năng bàn luận kinh người, sở trường về văn thơ
Nôm và giỏi hài hước.
Có lẽ xuất phát từ
sự “giỏi hài hước” của Cống Quỳnh mà dân gian đã đồng nhất ông với một nhân vật
rất nổi tiếng trong dân gian với những chuyện trào lộng cùng tên Quỳnh là Trạng
Quỳnh. Tuy nhiên, một số tác giả đã chỉ ra sự bất đồng khi so sánh, đối chiếu
con người và văn thơ của hai nhân vật này.
Nhà thơ Trần Đăng
Khoa, trong một bài viết của mình, đã dẫn lời nhà nghiên cứu lão thành Hoàng
Tuấn Phổ - đồng hương của cả Cống Quỳnh lẫn Trạng Quỳnh - trong bài “Trạng
Quỳnh, ông là ai?” đăng trong Tạp chí Văn nghệ Thanh Hóa từ tháng 8-1997 để
chứng minh hai nhân vật này không phải là một.
Theo đó, Truyện
Trạng Quỳnh có đến mấy truyện thú vị xoay quanh thiên tình sử ở thời trai trẻ
giữa Trạng Quỳnh và bà Đoàn Thị Điểm. Nhưng theo Gia phả thì Cống Quỳnh sinh
năm 1677 và mất năm 1748. Đoàn Thị Điểm sinh 1705 và mất 1748. Như vậy, khi
Cống Quỳnh 28 tuổi, làm giáo thụ ở huyện Thạch Thất, bà Điểm mới sinh, vậy thì
làm sao có những cuộc đối đáp thơ phú giữa ông Cống với con gái cụ Bảng Đoàn
như trong Truyện Trạng Quỳnh được?
Cống Quỳnh làm quan
cao nhất cũng chỉ mới đến Tri phủ, một chức rất thấp, nên ông không có “vé” nào
để được cử đi sứ, hoặc tiếp sứ Tàu như Truyện Trạng Quỳnh. Vì là truyện cười
dân gian, nên Trạng Quỳnh thỏa sức đả kích Vua Lê, Chúa Trịnh bằng đủ các chiêu
trò. Thế nhưng, Cống Quỳnh đang là một quan chức rất thấp thì dù có gan trời
cũng không dám “giỡn mặt” với vua chúa như thế được.
Trần Đăng Khoa giới
thiệu thêm một số bài viết khác mà ông cho là khoa học, nghiêm túc và đứng đắn,
rồi kết luận: “Điều đó chứng tỏ Trạng Quỳnh không phải là Cống Quỳnh như rất
nhiều học giả đã lầm tưởng. Cống Quỳnh là nhân vật lịch sử có thật. Còn Trạng
Quỳnh là nhân vật dân gian hư cấu. Nói rạch ròi điều này, hoàn toàn không
phương hại đến danh thơm cụ Cống, cũng chẳng có gì tổn hại đến di sản của cha
ông, mà ngược lại, chúng ta càng tự hào vì có đến hai cụ Quỳnh. Một cụ Cống
Quỳnh có thật, và một cụ Trạng Quỳnh truyền thuyết được xây đắp bằng trí tuệ
của dân gian...”.
Cống Quỳnh để lại một
số bài ký, văn tế mẹ, văn khóc em và hai bài phú chép trong tập “Lịch triều
danh phú” - tuyển tập của các danh sĩ đương thời, tất cả đều đỗ đại khoa, chỉ
có hai người đỗ Hương cống là Nguyễn Quỳnh và Đặng Trần Côn.
Hiện TP Hồ Chí Minh và TP Đà Nẵng đều có con phố mang tên Cống Quỳnh.
1 nhận xét:
VẪN THƯỜNG QUA PHỐ CỐNG QUỲNH, NAY MỚI BIẾT "GỐC TÍCH" TÊN PHỐ. CÁM ƠN BẢN BÁO.
Đăng nhận xét