Thứ Bảy, 2 tháng 4, 2016

CÁNH BUỒM TIÊN PHONG TRONG CẢI CÁCH GIÁO DỤC HIỆN ĐẠI

Phát biểu phản biện
theo thư yêu cầu ngày 9/02/2915 của Hội đồng khoa học Quỹ Văn hóa Phan Chu Trinh
(Nhà giáo ưu tú Vũ Thế Khôi)


CÁNH BUỒM là một nhóm sư phạm thiện nguyện mới hình thành và bắt đầu hoạt động cách nay 6 năm, tức từ năm 2009, với 6 thành viên ban đầu do nhà sư phạm lão thành Phạm Toàn lãnh đạo.
Nhà giáo dục học Nga K. Ushinski từng viết: “Cơ sở của mọi sự hiểu biết và tư duy là so sánh”.  Giám đốc Học viện Max Blanck về quá trình nhận  thức của con người W. Prinz khẳng định: “Nhận thức có nghĩa là so sánh”.
Chúng tôi sẽ cố gắng trình bày ý kiến của mình bằng phương pháp đó.

Điều trước tiên đáng trân trọng ghi nhận cho nhóm sư phạm Cánh Buồm là cái phương thức họ LÀM cải cách giáo dục. Trong khi người ta trình hết đề án này đến đề án nọ, viết đi viết lại đến 15 lần vẫn không đạt yêu cầu đề án mệnh danh “đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục”, cuối cùng trình ra cái đề án 34 ngàn tỷ biên soạn sách giáo khoa cải cách vô lý đến nỗi Quốc hội phải bác bỏ! – thì một nhóm nhỏ nhà giáo trẻ tâm huyết, tuổi đời lúc ấy đều dưới 30, được sự dẫn dắt, “truyền nghề” thực sự của một nhà giáo ngót nghét bát tuần, không được trả một đồng lương nào, không một xu kinh phí từ ngân quỹ nhà nước, ban đầu cũng chẳng một cắc tài trợ nào, chỉ vì “nhức nhối trong phủ tạng” (lời ô.Toàn) trước nỗi con trẻ nước nhà bị nhồi sọ đến mụ mị và mất cả tuổi thơ, nên ĐÃ THỰC SỰ LAO VÀO LÀM CÁCH MẠNG trong cái sự nghiệp lạc hậu nhất mà vẫn chây ỳ nhất, bảo thủ nhất – “toàn khẩu hiệu” – (lời ô. CT Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng) là GIÁO DỤC.
Và sau có 6 năm nhóm Cánh Buồm đã trình làng:
-         16 đầu sách giáo khoa tiểu học, trước hết là Tiếng Việt Văn từ lớp 1 đến lớp 5, và 3 cuốn cẩm nang hướng dẫn phương pháp dạy theo SGK Cánh Buồm, tổng cộng 2674 trang;
-         2 cuốn đầu tiên trong tủ sách “Tâm lý giáo dục học Cánh Buồm”: Sự ra đời trí khôn ở trẻ em của J.Piaget và Cơ cấu trí khôn – Lý thuyết về nhiều dạng trí khôn của H. Gardner, tổng cộng 1094 trang.
Như vậy, tất cả là: 3768 trang.

Nhưng đóng góp mang tính cách mạng của nhóm Cánh Buồm không phải ở số lượng trang in, mà là ở chỗ bộ SGK của họ thể hiện và trở thành công cụ thực thi một TƯ TƯỞNG HIỆN ĐẠI VỀ GIÁO DỤC TIỂU HỌC.
Thực vậy, trong khi các cuộc “cải tiến cải lui” trong cấp học cơ bản nhất này từ trước đến nay: cải từ chữ viết “tròn đầu” sang “cụt đầu”, rồi lại trở lui “tròn đầu”; cải học vần bắt đầu từ “a” sang từ “o”, rồi lại từ “o” sang từ “e”, và với cái đà phát triển các “dự án” kiểu này, chắc rồi sẽ cải sang bắt đầu từ “i”, mỗi lần tiêu tốn hàng ngàn tỷ đồng, mà không một vị GS hay thậm chí VS nào chỉ ra được rằng học vần không từ “a” mà bằng từ “o” hay từ “e” làm thay đổi được chút xíu gì trong cấu trúc trí khôn của đám học sinh bị đem làm chuột bạch  – tức các vụ “cải” đó đều PHI GIÁO DỤC, nhằm những mục tiêu ngoài giáo dục – thì bộ SGK Cánh Buồm làm thay đổi căn bản cấu trúc trí khôn của trẻ từ thụ động tiếp thu như cỗ máy sang TÍCH CỰC TƯ DUY, KHÁM PHÁ, thông qua sự chỉ dẫn của thày cô mà TỰ LÀM ĐỂ HỌC.
Tại sao giáo dục hiện đại cần phải làm như vậy, nếu nó muốn thực sự hiện đại TRONG HỌC ĐƯỜNG, chứ không phải chỉ trong chỉ thị, nghị quyết và khẩu hiệu?
Tại vì, bước sang thế kỷ XX, trước sự phát triển vũ bão của công nghệ thông tin và những biến động xã hội sâu sắc và nhanh chóng, đòi hỏi ở thanh niên vào đời năng lực độc lập xử lý và ứng phó, nhiều nhà giáo dục đã nêu ý kiến rằng mục tiêu của giáo dục hiện đại không phải chỉ là truyền đạt thụ động những tri thức kinh nghiệm mà loài người đã tích lũy được, cho dù là bằng những phương pháp mới nhất, với những phương tiện hiện đại và đắt tiền nhất; giáo dục hiện đại chủ yếu phải dạy cách học, qua đó mà dạy cách sống. Ở châu Âu và Mỹ dấy lên cả một phong trào cải cách giáo dục được biết đến dưới cái tên Educational progressivism, với một số nhà giáo dục có tiếng như Basedow và Freobel ở Đức, Pestalozzi ở Thụy Sĩ, Maria Montessori ở Ý…mà định hướng chung là chú trọng dạy kỹ năng thực hành và xử lý vấn đề, học thông qua việc làm. John Dewey dường như phát biểu lên triết lý giáo dục của họ: “Giáo dục tự nó đã là sống (Education is life itself)”, “giáo dục là hoạt động sống chứ không phải là sự chuẩn bị cho cuộc sống tương lai”[1]. Ngay ở Việt Nam dưới thời thuộc Pháp cũng đã có nhà giáo dục chịu ảnh hưởng của tư tưởng giáo dục tiến bộ đó khi viết trên trang báo Thanh Nghị, tháng 2 – 1945: “Học vấn chỉ là phương tiện của giáo dục. Hoạt động mới là cứu cánh của nó. Hoạt động là sống. Học để hành”[2] 
Bởi thế, mục tiêu của giáo dục hiện đại, của nhà trường hiện đại, của bài học hiện đại nếu nó thực sự là hiện đại chứ không phải chỉ “hại điện” do những thiết bị đắt tiền, như cái bảng điện tử chẳng hạn, thì mục tiêu giờ lên lớp đó không phải là truyền thụ tri thức kinh nghiệm có sẵn, SGK không phải là cái bồ ních chặt kiến thức có sẵn – mục tiêu của mỗi tiết tiểu học hiện đại, mỗi trang SGK tiểu học hiện đại là dẫn dắt trẻ em từng bước thao tác với đối tượng cụ thể để “phát hiện lại” những khái niệm khoa học trừu tượng đã được các nhà khoa học tìm ra, qua đó phát triển tư duy sáng tạo cùng phương pháp tự học để tự chiếm lĩnh kiến thức. Đó chính là tự học để tự phát triển các “năng lực người” của mình. PHƯƠNG PHÁP TỰ HỌC, - chứ không phải kiến thức! – là cứu cánh của giáo dục tiểu học hiện đại!
Có cơ sở khoa học để thực hiện điều đó với con trẻ ở tuổi tiểu học không? – Có!
Về lý thuyết khoa học, đó là những phát hiện tâm lý học ở đầu thế kỷ XX của Jean Piaget về quá trình phát triển tự nhiên tư duy hình tượng và trừu tượng ở trẻ em và của Lev Vygotski về sự phát triển nhân tạo (tức bằng giáo dục) ở chúng qua một cơ chế  kỳ diệu – “chuyển vào bên trong tâm lý” (interiorisation) các thao tác với vật thể bên ngoài. Cái cơ chế “Interiorisation” đại khái thế này: thao tác chặt bằng hòn đá vẹt một bên, qua quá trình lâu năm chuyển tự nhiên vào trong tâm lý, đã thành năng lực sáng tạo cái rìu, còn thao tác cò cưa bằng hòn đá sứt mẻ - thành cái cưa, chứ không thể ngược lại.
Về thực tế khoa học, đó là những công trình thực nghiệm sư phạm ở nửa sau thế kỷ XX của các GS P.Galperin và V. Davydov về quá trình hình thành từng bước ở lứa tuổi học sinh các hành động trí tuệ. GS V. Davydov chính là thầy hướng dẫn cho nghiên cứu sinh Hồ Ngọc Đại, người sau khi tham gia thực nghiệm và bảo vệ thành công luận án TSKH tâm lý, trở về Việt Nam đề xuất khái niệm CÔNG NGHỆ GIÁO DỤC và với sự cộng tác tích cực của nhà giáo Phạm Toàn, vốn dầy dạn kiến thức và kinh nghiệm giáo dục tiểu học, với một trái tim nồng cháy tình thương yêu con trẻ, mở Trường thực nghiệm CNGD ở Trường Giảng Võ – Hà Nội, sau được Bộ trưởng Giáo dục thời đó là bà Nguyễn Thị Bình cho triền khai thí điểm ở 43 tỉnh thành trong cả nước, nơi nào cũng thành công, được giáo viên và học sinh nhiệt liệt hoan nghênh, nhưng rồi … “bị bóp mũi” (lời GS Hồ Ngọc Đại) bởi cái nghị quyết– “một chương trình, một bộ sách giáo khoa”!!!
Nhưng khoa học không thể bị bóp nghẹt! Tiếng Việt 1, thành quả của công cuộc thực nghiệm tại trường Giảng Võ, vẫn được các nhà giáo tâm huyết sử dụng để dạy rất thành công trẻ em dân tộc một số tỉnh biên giới học tiếng Kinh và chữ quốc ngữ, GĐ Sở GD những tỉnh đó vì con em dân tộc mà đồng lòng kiến nghị kiên quyết, cuối cùng ông Bộ GD – ĐT cũng đã phải quyết định cho sử dụng chính thức ở các trường dân tộc trong cả nước.
Các tác giả bộ 16 SGK Cánh Buồm tuyên bố công khai, rõ ràng rằng tất cả các công trình của họ là “sự hiện thực hóa” tư tưởng CNGD của GS Hồ Ngọc Đại, nên cấu trúc và nội dung bài học nhất quán tuân thủ nguyên tắc: Thầy thiết kế trò thi công. Thiết kế và thi công ra sao, được miêu tả qua từng khâu hướng dẫn của thầy cho từng “việc làm” của trò trong mỗi giờ học nhằm “khám phá” từng bước khái niệm. Riêng đối với bộ Tiếng Việt 1 - 5Văn 1 - 5 tái bản lần thứ 3 (2014), quy trình thầy thiết kế – trò thi công đã được đưa đến độ hoàn hảo: bài học được phân thành từng tiết, mỗi tiết gọn 1 trang, thực hiện trọn vẹn 1 “việc làm” nhằm khám phá một kiến thức tạo tiền đề cho tiết tiếp theo, cứ như vậy đến thành quả cuối cùng. Có thể nói bộ Tiếng Việt và Văn từ lớp 1 đến lớp 5 này đã thực sự trở thành một cẩm nang “3 trong 1” (nhiệm vụ khám phá – quy trình thao tác – thành phẩm kiến thức) để không phải trên khẩu hiệu mà là trên thực tế học đường tiểu học nghiêm chỉnh thực hiện nghị quyết “đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục”. Thực chất, SGK Cánh Buồm nếu được áp dụng rộng rãi sẽ làm một cuộc cách mạng học đường tiểu học theo phương châm hiện đại, khai phóng con trẻ nước nhà, giải thoát chúng khỏi những cái ba lô kéo xệ vai, vẹo cột sống, khỏi những áp lực bài vở, học thêm học đếm giết chết nụ cười trên gương mặt trẻ thơ, biến mỗi ngày đến trường thành một ngày vui – triết lý học đường được nhà văn vĩ đại đồng thời cũng là nhà giáo dục vĩ đại Lev Tolstoi đề xuất từ năm 1862 cho ngôi trường tiểu học trong điền trang Yasnaia Poliana (Cánh đồng sáng sủa!) của ông[3].

Tuy nhiên, đó chưa phải là toàn bộ khối lượng công việc giáo dục mà nhóm Cánh Buồm đã làm trong 6 năm qua.
Một mảng lớn công việc cách mạng giáo dục mà  nhóm Cánh Buồm ĐÃ LÀM, đó là nỗ lực “CÁCH CÁI ĐẦU” của xã hội về tư duy giáo dục, bằng các biện pháp không tốn một xu ngân sách giáo dục, hoàn toàn bằng sự tình nguyện đóng góp của các cá nhân và tổ chức xã hội:
-         7 cuộc hội thảo sôi nổi (không phong bì!), đối thoại trực tiếp (chứ không kẻ cả lên lớp độc diễn!) với phụ huynh học sinh, giáo viên trẻ và giáo sinh sư phạm về sách giáo khoa và phương pháp dạy theo sách Cánh Buồm, với các chủ đề như: Hiểu trẻ em – Dạy trẻ em, Tự học – Tự giáo dục, Em biết cách học v.v…
-         11 cuộc tọa đàm cũng với đối tượng trên, về các chủ đề như: Làm thế nào để dạy con tốt, Cùng con dùng sách Cánh Buồm, Phản biện bộ sách Cánh Buồm v.v….
-         Tổ chức định kỳ hàng tháng buổi sinh hoạt giao lưu “Câu lạc bộ Cánh Buồm”, khách vào tự do và hoàn toàn miễn phí

Phải chăng kết quả của hoạt động sư phạm khai sáng ấy đã tạo thuận lợi cho nhóm Cánh Buồm thực hiện được một hoạt động sư phạm có ý nghĩa quyết định đối với việc khẳng định tư tưởng hiện đại về giáo dục tiểu học mà họ kiên trì, nhưng cũng bị kiên trì cản trở bởi sóng ngầm từ cơ chế – đó là tiến hành dạy THỰC NGHIỆM bộ sách giáo khoa đã soạn xong theo phương pháp sư phạm Cánh Buồm.
Với thanh gươm “Một chương trình, một bộ sách giáo khoa” treo lơ lửng trên đầu, không một trường công lập và “dân lập” nào dám mở cửa cho nhóm Cánh Buồm đem bộ SGK của mình vào thử nghiệm. Mới đầu nhóm Cánh Buồm đành dạy thử nghiệm ở vài ba nhóm học sinh được phụ huynh tình nguyện cho học ngoài giờ. Năm 2011, Trường tiểu học Nguyễn Văn Huyên ở Hà Nội, với bà Hiệu trưởng là TS giáo dục học Nguyễn Kim Bích Hà, con gái thứ của cố Bộ trưởng Huyên, đã cho phép nhóm Cánh Buồm sử dụng SGK Văn và Lối sống như một chương trình mở rộng vào buổi học chiều mà ông Bộ quy định, nhưng không có chương trình và tài liệu giảng dạy, giáo viên các trường “tự biên, tự diễn”. Đã có một cuộc họp của nhóm Cánh Buồm ở Ban khoa giáo Trung ương với sự tham dự của một vị GĐ Sở GD – ĐT một tỉnh miền Trung, đồng ý cho các trường tiểu học ở thành phố nọ triển khai SGK Cánh Buồm như chương trình phát triển trong buổi học phụ khóa (chiều hoặc sáng): điều này đã có tiền lệ là một vài chương trình phát triển của Bộ được sử dụng lấp khoảng trống trong các buổi phụ khóa đó. Nhưng rồi, việc bị chấm lửng … Không chỉ có vậy, sau 1 năm rưỡi triển khai như một chương trình mở rộng ở Trường tiểu học Nguyễn Văn Huyên, với sự thay đổi nhân sự ở đó, Cánh Buồm cũng bị cấm cửa!
Bản thân từng biên soạn ngót 2 nghìn trang sách giáo khoa thực nghiệm các phương pháp mới về dạy ngoại ngữ trong những năm 70 – 80 của thế kỷ trước, từng trải không ít khốn khó để đưa cái mới vào thực tiễn giảng dạy nhằm khẳng định hướng tiếp cận hoạt động trong SGK và trên học đường dạy ngoại ngữ, chúng tôi thấu hiểu sự bức súc và khâm phục ý chí kiên cường của Cánh Buồm – một cái tên được đặt thông minh, rất có ý nghĩa:
Cánh Buồm nổi loạn đòi giông,
Dường trong giông tố thì lòng mới yên!

Có vị quan chức giáo dục nọ mới lơ mơ về SGK Cánh Buồm, nhưng quen thói miệng nhà quan, đã phán nhóm Cánh Buồm là “amateurs”! Bởi vậy chúng tôi phải nói lên những chuyện không vui trên đây để thấy sự NGHIÊM TÚC KHOA HỌC của Cánh Buồm quyết vượt mọi sóng ngầm, đá ngầm đưa con tầu không số SGK CB vào thử rẽ sóng trong cái biển giáo dục mù mờ của nước nhà, rọi một ánh đèn pha tới bờ giáo dục hiện đại. Thực vậy, chưa qua thực nghiệm sư phạm, chưa thể khẳng định được sự tiếp nhận SGK của đối tượng giáo dục – của học sinh tiểu học là thuận lợi hay không? Biết điều chỉnh ra sao khi không có luồng thông tin phản hồi?
Sự kiên trì và thái độ khoa học nghiêm túc của Cánh Buồm cuối cùng đã có hiệu ứng: trong năm học 2013 – 2014 nhóm được mời triển khai nhất loạt SGK Tiếng Việt 1 - 5 và Văn 1 - 5 ở toàn khối tiểu học của trường phổ thông liên cấp Olympia. Những người không tham dự trực tiếp không thể hình dung được không khí hồ hởi, thoải mái tiếp nhận tiết học được thực hiện bởi các cô giáo trẻ của Olympia, đã được thày Toàn tập huấn kỹ lưỡng, cầm tay chỉ việc hàng tuần, lại được dự giờ lên lớp mẫu của các thành viên nhóm Cánh Buồm. Những tiết học hào hứng và hiệu quả.
Nhóm Cánh Buồm đã thành công “double” ở đây: 1) SGK dạy thực nghiệm cho kết quả khẳng định tư tưởng giáo dục tiểu học hiện đại; 2) Nhóm cánh Buồm được bổ sung “thê đội 2” – một tập thể các cô giáo trẻ Olympia say mê và vững vàng phương pháp Cánh Buồm đến mức bắt đầu tự biên soạn tài liệu đứng lớp theo nguyên tắc “thầy thiết kế – trò thi công”.
Và lãnh đạo Trưởng phổ thông liên cấp Olympia đã đặt hàng cho nhóm Cánh Buồm biên soạn tiếp SKG cho cấp phổ thông cơ sở.

(Hà Nội – TP Hồ Chí Minh, 18/02 – 28/02/2015)

*
*       * 

VÀI NÉT TIỂU SỬ CÁ NHÂN
-          Họ, tên: Vũ Thế Khôi (bút danh: Văn Khôi, Hà Minh Thắng)
-          Sinh năm 1938 trong gia đình trí thức, tiên tổ: danh nhân văn hóa-giáo dục tiến sĩ Vũ Tông Phan; cha: luật gia Vũ Đình Hòe, nhà giáo tư thục Thăng Long và Gia Long, Phó hội trưởng Hội Truyền bá Quốc ngữ; nguyên Bộ trưởng Quốc gia Giáo dục và Bộ trưởng Tư pháp Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa;
-          Tốt nghiệp hệ 5 năm Khoa ngữ văn Đại học Sư phạm Lenin Moskva năm 1961; giảng viên cao cấp tiếng Nga, văn học Nga và dịch thuật; nguyên Trưởng khoa tiếng Nga Đại học Ngoại ngữ Hà Nội (nay là Đại học Hà Nội); Nhà giáo ưu tú từ 1992; về hưu năm 1998; dịch giả, sáng lập viên và ủy viên Hội đồng khoa học Trung tâm văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây
-          Các công trình sư phạm: 1) Chủ nhiệm bộ 8 Chương trình ngoại ngữ cơ bản Nga, Anh, Pháp, Trung của Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp năm 1995; 2) Chương trình thử nghiệm cử nhân ngoại ngữ phân ban giáo viên và phiên dịch, biên soạn cho Đại học Ngoại ngữ năm 1990; 3) Chương trình đào tạo thạc sĩ ngoại ngữ, (chấp bút phần cơ sở khoa học) cho Đại học Hà Nội năm 2001; 4) SGK tiếng Nga cho năm thứ nhất đại học ngoại ngữ (thử nghiệm 1969 – 1970; duyệt chính thức 1971; in 1971, 1974, 1977, 1978); 5) SGK tiếng Nga cho sinh viên năm thứ hai đại học ngoại ngữ (thử nghiệm 1976 – 1977, duyệt chính thức 1978)
-          Các công trình nghiên cứu về văn hóa - giáo dục đã công bố : 1) Mộ Trạch Vũ tộc thế hệ sự tích. Khảo cứu, phiên dịch và chú giải (970 tr.). – NXB Thế giới, Hà Nội – 2004; 2) Triết lí giáo dục vị nhân sinh ở Việt Nam (chuyên luận, 80 tr.). – Viện Thông tin Khoa học Xã hội, Hà Nội – 2008; 3) Vũ Tông Phan với văn hóa Thăng Long - Hà Nội. Chủ biên (560tr). – NXB Lao Động & Trung tâm Ngôn ngữ Văn hóa Đông Tây, Hà Nội – 2010;
-          Nhiều bài viết về văn hóa, triết lý và cải cách giáo dục trên các tạp chí chuyên ngành: Khoa học Ngoại ngữ, Tạp chí Ngôn ngữ, Tạp chí Văn học, Tạp chí Hán Nôm, Thông báo Hán Nôm học, Xưa & Nay, Giáo dục và Thời đại.
-          Đã được mời tham dự và đọc tham luận tại một số hội thảo quốc tế: 1) Sự truyền bá chữ Hán và giao lưu văn hóa Trung - Việt; Thâm Quyến 19 – 21/ 12/2003; 2) Các chức năng của tiếng Nga và việc giảng dạy tiếng Nga ở Đông Nam Á; Hà Nội, 6 – 7/ 11/2005; 3)Việt Nam – le moment modernist; Aix-en-Provence (CH Pháp), 3 – 5/ 05/2007; 4) Đổi mới giáo dục đại học Việt Nam – hai thời khắc đầu thế kỷ; Đại học Hoa Sen TP Hồ Chí Minh, 18/12/2008.
-          Liên hệ: nhà 23, ngõ 154, phố Đội Cấn, q. Ba Đình - Hà Nội; mobi: 0932.332003; e-mail: vuthekhoi@gmail.com (hiện thời tạm trú tại: số 13A đường 9, khu phố 3 phường Linh Trung quận Thủ Đức TP Hồ Chí Minh; ĐT: 08-37.220090)




2 John Dewey: Dân chủ và giáo dục. Phạm Anh Tuấn dịch. – NXB Tri Thức 2008, 2010.
3 Vũ Đình Hòe: Những phương pháp giáo dục ở các nước và vấn đề cải cách giáo dục. – Thanh Nghị tùng thư, Hà Nội 1945.
[3] Vũ Thế Khôi: Triết lý giáo dục của lòng yêu thương. - tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 12 - 2010, tr. 29 - 43; vanvn.Net của Hội Nhà văn Việt Nam ngày 10 - 12 - 2010 và website hiendai.edu.vn càc ngày 5, 10, 15 - 12 - 2010 ; bản tóm tắt: Văn nghệ Trẻ, số 50 (736), ra ngày 12 - 12 - 2010; Giáo Dục & Thời Đại Chủ nhật số 51 (19.12.2010) và Phongdiep.net  

2 nhận xét:

Nặc danh nói...

Một ví dụ:
Cho đến tận bây giờ GD Đông Đức vẫn theo niên chế ( thầy đọc trò chép như ở ta ), Tây Đức theo tín chỉ ( thầy chỉ lên lớp nhập môn rồi chỉ sách cho tự học rồi chỉ lịch thi , đủ số tín chỉ nào đó thì ra trường )
GD Đại học chỉ ở hai mức kiến thức cơ bản và cơ sở là đã tốt nghiệp. Người tốt nghiệp được Hãng mua sẽ được kỹ sư của Hãng dạy tiếp kiến thức chuyên ngành. Số tốt nghiệp hàng năm chỉ vài phần trăm, đa phần sinh viên tránh thi tốt nghiệp để hoặc thi lại các tín chỉ để nâng điểm hoặc chuyển sang học các chuyên đề khác được cho là hợp khả năng và sở thích. Họ không bị hạn định tuổi học, học được tính như đi làm, có tính hưu. 55 tuổi trở lên có đại học cho người cao tuổi (Tuần hai buổi nhưng nhiều phát minh đã được đưa ra từ nhũng mái đầu bạc ).
Cổ nhân có câu : Sở học vô cùng.
TV.

Nặc danh nói...

Ở ta sau này có nhiều trường dạy tín chỉ, bắt đầu từ các trường phía Nam. Khái niệm tín chỉ tôi được nghe đầu tiên từ cố GS Thiếu tướng CAND Nguyễn Đình Ngọc khi sinh thời.
TV.