Thứ Hai, 29 tháng 8, 2011

LOẠT BÀI VỀ “CÂU CHUYỆN KHÔNG THỂ KHÔNG NÓI” (ST: Phương Hiền)

BT5 thấy loạt bài này có thể giúp ta tham khảo, xem họ đã viết gì về VN ta.

(Bắc Kinh 31/7): Trong bối cảnh đang có sự tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam liên quan đến vấn đề Biển Đông, tạp chí “Tri thức thế giới” dưới quyền chủ quản của Bộ Ngoại giao Trung Quốc số 14 ra ngày 16/07/2011 có loạt bài viết trong một chủ đề lớn: “Việt Nam – Câu chuyện không thể không nói”, đề cập đến nhiều vấn đề lớn trong quan hệ giữa hainước từ thời truyền thuyết, qua các thời kỳ lịch sử đầy biến số cho đến hiệntrạng quan hệ như đang diễn ra ngày nay. Dưới đây là những bài viết trong loạt bài nói trên:

Bài I - Lịch sử và chân thực: Diễn biến quan hệ Trung-Việt trước năm 1949
(Tác giả Tôn Hồng Niên, Nghiên cứu viên thuộc Trung tâm nghiên cứu sử địabiên giới, Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc)
Việt Nam và Trung Quốckhông chỉ có truyền thuyết giống nhau về “Hậu duệ của Rồng” và “con Rồng cháuTiên”, mà lịch sử Việt Nam còn liên quan chặt chẽ với Trung Quốc, văn hoá vàchế độ của Việt Nam cũng gần gũi và thông dòng chảy với Trung Quốc, đến hai chữ “Việt Nam” cũng do Hoàng đế Gia Khánh xác định, thời kỳ cận đại lạicàng có quan hệ hữu nghị chiến đấu chống lại ách xâm lược của các cường quốc tưbản phương Tây… Nhưng, đến nay không ít người Việt Nam đã không biết rõ sự thựcnày, hơn nữa còn coi việc đề phòng “kẻ thù phương Bắc” như là nội dung giáo dụcquốc dân. Gần đây có không ít người còn trương lên khẩu hiệu “Láng giềng TrungQuốc: Xác to, tâm địa độc ác”. Vậy thực chất quan hệ  Trung-Việt là gì? Bài viết bắt đầu từ một truyền thuyết đẹp cho đến trước khi Nước CHND Trung Hoa thành lập năm 1949.


1/ Truyền thuyết đẹp và những cách hiểu khác nhau
Người Trung Quốc tự xưng là “Hậu duệ của Rồng”. Từ thời cổ đại Trung Quốc đã có truyền thuyết ThầnNông, các đời vua Nghiêu, Thuấn, Vũ đều đã tuần thú đến “Giao chỉ”. Đến thờinhà Chu chế định Lễ Nhạc, thiên hạ thái bình, cả bộ lạc “Việt Thường Thị” ởphía Nam “Giao Chỉ” cũng chịu ảnh hưởng, sai sứ giả đến đo thành nhà Chu cốngchim trĩ trắng, còn nói do đường xa, ngôn ngữ bất đồng phải có phiên dịch nênvất vả lắm mới đến được tới nơi. Dưới con mắt của người Trung Quốc lúc đó vàsau này, “Giao Chỉ” và “Việt Thường Thị” ở đây đều có ý chỉ phương Nam chứkhông thể hiện riêng một khu vực nào. Các truyền thuyết này cũng cho thấy từthời đại truyền thuyết đến thời Tây Chu, Trung Quốc đã có quan hệ hoà bình hữuhảo với bộ tộc ở phương Nam xa xôi.
Người Việt Nam cũng tựxưng là “con Rồng cháu Tiên”, cũng có chuyện thần thoại giống như Trung Quốc,vấn đề chỉ là sau thế kỷ 13, 14 sau Công nguyên, người Việt Nam mới có sử sáchghi bằng chữ Hán, trong đó có ghi truyền thuyết cháu đời thứ ba của Thần Nônglà Đế Minh tuần thú phương Nam, đến Ngũ Lĩnh gặp một tiên nữ, lấy nhau, sinh raLộc Tục, phong Lộc Tục làm vua cai trị đất phương Nam, xưng là Kinh Dương Vươngcai trị vùng đất rộng, “Bắc đến Động Đình, Tây đến Ba Thục”, Kinh Dương Vươnglấy con gái của Long Quân ở Động Đình, sinh ra Sùng Lãm. Sau khi kế vị, SùngLãm xưng là Lạc Long Quân và lấy Âu Cơ, một lần sinh ra 100 người con trai, lạinói với Âu Cơ rằng ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên như nước với lửa nên đãdẫn 50 người con theo mình xuống Nam Hải, còn lại 50 người con theo mẹ lên núi.Lạc Long Quân còn phong con trưởng làm vua nước Văn Lang, xưng là “Hùng Vương”.Thời đại Hùng Vương phân thành 15 bộ, bị “giặc Ân” xâm chiếm… Đến đời HùngVương thứ 18, “vua Thục” đã thôn tính “nước Văn Lang” lập nên “nước Âu Việt”.Tần Thuỷ Hoàng lại sai quân diệt bộ tộc Bách Việt và “nước Âu Việt”, lập thànhNam Hải, Quế Lâm, Tượng Quận.
Thần thoại theo cáchghi của Việt Nam thế kỷ thứ 15 một mặt đã xác định người Việt Nam là hậu duệcủa Thần Nông, là “con Rồng cháu Tiên”, đã tìm được kiểm kết hợp đồng căn đồngchủng (cùng gốc cùng loài) với người Trung Quốc, mặt khác lại đưa thêm vào “nộidung mới” không hề nhẹ nhàng thoải mái, nhất là các nội dung như “nước VănLang” đánh đuổi “giặc Ân”, “Thục Vương” diệt “nước Văn Lang” lập nên “nước ÂuViệt”, nhà Tần diệt “nước Âu Việt” thiết lập quận huyện. Những nội dung mới nhưvậy liệu có đáng tin cậy hay không? Thế kỷ thứ 19 có nhà sử học của Nhà nướcViệt Nam đã chỉ rõ, cái gọi là “Tây đến Ba Thục, Bắc đến Động đình” ở thời đại“nước Văn Lang” là cách nói khoác lác, câu chuyện về Thục Vương cũng là hư cấu.Ở thế kỷ trước, các học giả về khảo cổ học, lịch sử học Trung Quốc và nướcngoài trong đó có cả học giả Việt Nam đã tiếp tục nêu thắc mắc về những truyềnthuyết nói trên của Việt Nam. Mọi người còn chú ý thấy rằng lịch sử xác thựccủa Việt Nam có căn cứ để tra cứu không sớm hơn thời nhà Tần, “nước Văn Lang”,“nước Âu Việt” chỉ là sự phản ánh tình hình trong thời kỳ bộ lạc nguyên thuỷcủa người Lạc Việt cổ đại, những “nội dung mới” này chỉ là những ghi chép lấy ratừ trong các tư liệu lịch sử của Trung Quốc và một số nội dung trong các truyềnthuyết như “Liễu Nghị truyện thư” thời nhà Đường rồi thay đổi, biên soạn lại màthành, từ sau thế kỷ thứ 13 các triều đại vua ở Việt Nam muốn đề cao tính tựtôn dân tộc nên đã không ngừng củng cố và làm phong phú thêm. Mọi người có thểlý giải được tầm quan trọng của lòng tự trọng đối với một dân tộc, nhưng đồngthời lại càng lo: Nếu coi những “nội dung mới” được hư cấu như vậy là sực thựclịch sử dùng để giáo dục quốc dân, sẽ chỉ có thể khiến cho họ (người VN) chorằng từ hơn 4.000 năm trước đây Việt Nam đã bị “giặc Ân”, “vua Thục” và nhà Tần“xâm lược”, lúc nào cũng phải đề phòng “kẻ thù phương Bắc”, nếu như vậy thì sẽphải làm thế nào để cho Trung Quốc và Việt Nam đời đời chung sống hữu hảo, trởthành “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” của nhau được?

2/ Từ thời đại quậnhuyện đến quan hệ tông phiên
Sau khi Tần Thuỷ Hoàngthống nhất Trung Quốc, bình định vùng đất Lĩnh Nam thiết lập chế độ quận huyệnở đó cho đến thế kỷ thứ 10 sau CN, Việt Nam luôn là quận huyện của Trung Quốc,thời kỳ này được gọi là “thời kỳ Bắc thuộc” hay là “thời đại quận huyện”. Tronghơn 1.000 năm nói trên các triều đại Trung Quốc ở Trung Nguyên và chính quyềnmang tính địa phương ở phía Nam (như Nam Việt) đều thiết lập chế độ quận huyệnở khu vực Bắc bộ và Trung bộ của Việt Nam hiện nay, văn hoá ở khu vực này liêntục phát triển, từ xã hội bộ lạc đi đến xã hội phong kiến. Thời kỳ Hoàng đếTriệu Đà của “nước Nam Việt” thời nhà Tần và đầu thời nhà Hán đã dạy nhân dântrồng cấy, mở rộng văn hoá giáo dục; dưới thời nhà Hán, Thái thú Giao Chỉ làTích Quang, Thái thú Cửu Chân là Nhiệm Diên đã xây dựng trường học, mở rộng kỹthuật canh nông tiên tiến; Sĩ Nhiếp thời Tam Quốc đề xướng văn hoá Nho gia nhưThi, Thư, Lễ, Nhạc; Những sự tích nói trên đều được sử sách của Trung Quốc vàViệt Nam sau đó khẳng định. Sau mấy thế kỷ, kinh tế, văn hoá ở khu vực Bắc bộ,Trung bộ Việt Nam ngày nay, lúc đó tất cả đều thuộc quyền cai quản chung của AnNam Đô hộ phủ thời nhà Đường đã phát triển đến trình độ tương đối cao, châu Ái(tức vùng Thanh Hoá ngày nay) của An Nam lúc đó có người tên là Khương Công Phụthi đỗ Tiến sĩ, được bổ nhiệm giữ chức “Đồng trung thư môn hạ bình chương sự”(Tể tướng). Hơn nữa, ở “thời kỳ Bắc thuộc” ảnh hưởng của kinh tế, văn hoá TrungQuốc đã không chỉ giới hạn ở tầng lớp sĩ đại phu mà đến nay vẫn còn ảnh hưởngđến ngôn ngữ, phong tục, lễ nghi ở Việt Nam, ví dụ như từ ngữ Hán Việt trongtiếng Việt hiện đại, tức từ ngữ mượn chữ Hán của Trung Quốc vẫn chiếm 80%, ítnhất cũng có 65%.
Ảnh hưởng của thời kỳBắc thuộc đối với Bắc bộ, Trung Bộ Việt Nam lại cả trong nhiều phương diện, thứnhất là một số quan lại cũng thi hành chính trị hà khắc giống như quan lạitrong nội địa (Trung Quốc trung tâm), nhiều lần dẫn đến các cuộc đấu tranhchống phong kiến của nhân dân ở thực địa; Hai là một số tầng lớp chủ phong kiếnở đó chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hoá Hán, thời kỳ sau nhà Đường và Ngũ đạithập quốc đứng trước tình thế loạn lạc do hoàng quyền yếu nhược, phiên trấn cátcứ, ý thức cát cứ xưng hùng, tự lập vua không ngừng mạnh lên. Sau khi nhà Đườngdiệt vong, khu vực này bắt đầu xuất hiện tình thế hào cường xưng hùng, năm 968Đinh Bộ Lĩnh thành lập nước “Đại Cồ Việt”, Việt Nam thoát ra khỏi chế độ thốngtrị phong kiến, trở thành quốc gia phong kiến độc lập. Sau đó Việt Nam đã trảiqua nhiều lần thay đổi vương triều, bao gồm triều Đinh (năm 968 – 980), triềuTiền Lê (năm 980 – 1009), triều Lý (năm 1010 – 1225), triều Trần (năm 1225 –1400), triều Hồ (năm 1400 – 1407), triều Hậu Lê (năm 1428 – 1788), triều TâySơn (năm 1788 – 1802), triều Nguyễn (năm 1802 – 1885)… Các vương triều nói trêncủa Việt Nam sau khi thành lập đều xác lập và duy trì quan hệ tông phiên (tứcquan hệ tông chủ – thuộc quốc, hay còn gọi là nước trung tâm – nước phụ thuộc)cho đến năm 1885 Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp.
Quan hệ tông – phiêngiữa Việt Nam và Trung Quốc chủ yếu thể hiện qua một số phương diện như sau:
Thứ nhất, khi các vịvua già của vương triều qua đời, vị vua khác lên thay thường cho sứ sang TrungQuốc để “cầu phong”. Các nhà thống trị Trung Quốc thời đó nói chung không canthiệp, mà cơ bản là cử người đến sắc phong để thoả mãn yêu cầu được sắc phongcủa các chủ phong kiến. Ví dụ thời nhà Tống, lần lượt trong các năm 973, 993 và1010 đã sắc phong cho Đinh Bộ Lĩnh (triều Đinh), Lê Hoàn (triều Tiền Lê), LýCông Uẩn (triều Lý) là Quận Vương Giao Chỉ, năm 1164 lại sắc phong cho Lý ThiênTộ (Lý Anh Tông) làm Quốc vương An Nam, năm 1789 sắc phong cho Nguyễn Quang Bìnhlà người lật đổ triều Hậu Lê, sáng lập ra triều Tây Sơn làm Quốc vương An Nam,năm 1802 sắc phong cho Nguyễn Ánh làm Quốc vương An Nam. Thời kỳ đó, khi NguyễnÁnh đến cầu phong, tỏ ý đã thống trị được các địa phương như “Việt Thường, ChânLạp” nên muốn đổi quốc hiệu từ “An Nam” thành “Nam Việt”. Triều đình nhà Thanhmới bắt đầu cho rằng nước Nam Việt là chính quyền cát cứ thời kỳ giữa nhà Tầnvà nhà Hán, cai quản các khu vực Quảng Đông, Quảng Tây và Bắc bộ, Trung bộ củaViệt Nam nên chưa phê chuẩn. Hoàng đế Gia Khánh sau đó nhấn mạnh, Nguyễn Ánh đãlần lượt thống trị được “đất cũ Việt Thường”, sau lại chiếm toàn bộ lãnh địa AnNam nên đã phê chuẩn tên nước là “Việt Nam”. Nguyễn Ánh cũng tỏ ý tiếp nhận, từđó nước này có tên là “Việt Nam”.
Thứ hai, khi đã xácđịnh quan hệ tông phiên, vua Việt Nam định kỳ sai sứ giả sang Trung Quốc triềucống, Hoàng đến Trung Quốc lại cho những phẩm vật có giá trị lớn hơn gọi là“hồi tặng”. Ví dụ như trong các năm 1644 – 1885, các đời vua Việt Nam tổng cộngđã cử hơn 60 đoàn sứ giả sang Trung Quốc triều cống, phẩm vật triều cống chủyếu là lư hương bằng vàng, lọ hoa vàng, hộp bạc, trầm hương…, nhà Thanh hồitặng cũng tương đối cố định, tổng giá trị nói chung lớn hơn vật cống.Năm 1790 triều Tây Sơn cho đoàn sứ giả sang chúc thọ Hoàng đế Càn Long, phẩmvật ban tặng của Càn Long trước sau tổng cộng có hơn 10.000 lạng bạc, 11 báuvật Đại Nguyên cùng các đồ tơ lụa, đồ ngọc sức, đồ sứ, đồng hồ Tây….
Thứ ba, dưới tiền đềquan hệ tông phiên, Trung Quốc là “Thiên triều thượng quốc”, Việt Nam là phiênthuộc, đó chỉ là phản ánh của “hệ thống lễ trị thiên triều” theo quan hệ đẳngcấp giữa quân chủ hai nước và trạng thái tâm lý về mặt văn hoá chứ hoàn toànkhông làm thay đổi thực chất quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam với tư cách làhai quốc gia, Trung Quốc hoàn toàn không chủ động can thiệp công việc nội bộcủa Việt Nam về cả đối nội và đối ngoại.
Dưới tiền đề quan hệtông phiên, Trung Quốc và Việt Nam trên tổng thể giữ quan hệ hữu hảo, cũng cólúc xảy ra xung đột, chiến tranh, nhưng ngoài việc quân Nguyên xâm lược ViệtNam và triều đình nhà Minh thiết lập trở lại chế độ quận huyện ở Việt Nam vàocác năm 1407 – 1427, các cuộc xung đột và chiến tranh còn lại phần lớn là docác chúa phong kiến Việt Nam xâm phạm quấy nhiễu khu vực biên giới của TrungQuốc. Việc triều đình nhà Thanh đưa quân sang Việt Nam vào các năm 1788 –1789 và 1885 cũng là trong bối cảnh đặc biệt theo yêu cầu của các nhà thống trịViệt Nam, xuất quân sau khi đã thận trọng xem xét nhưng đã nhanh chóng rút quânvề nước.

3/ Sát cánh chiến đấu từ thời kỳ cận đại
Trong 60 năm từ saunăm 1885 Việt Nam trở thành thuộc địa của thực dân Pháp, các sự kiện lớn trongquan hệ Trung-Việt chủ yếu có hai phương diện:
Thứ nhất, hai nướcTrung – Pháp đã thông qua đàm phán hoạch định biên giới Trung-Việt. Xét trêntổng thể, biên giới đường bộ theo cách phân định lần này về cơ bản là phù hợpvới diễn biến trong lịch sử, lần đầu tiên đã xác định chủ quyền đối với phầnlớn biên giới lãnh thổ bằng hình thức hiệp ước, từ đó đã phân định biên giới trêncơ sở pháp luật một cách khách quan, làm cho đường phân định này trở thành cơsở để hai nước duy trì và ổn định đường biên giới trên bộ.
Thứ hai, quan hệ giữanhân dân hai nước chủ yếu được thể hiện bằng việc hai nước cùng chống lại xâmlược của nước ngoài. Sau năm 1885 dù là “Phong trào Cần vương” (đấu tranh vũtrang chống Pháp) do giới quý tộc ở Việt Nam phát động hay là khởi nghĩa củanông dân, cũng đều được quân Cờ đen là lực lượng vũ trang địa phương ở khu vùngQuảng Tây ủng hộ. Chính phủ nhà Thanh tuy không muốn tiếp tục vì Việt Nam màxung đột với Pháp nhưng cũng ngầm bảo vệ một số ít nhân sĩ chống Pháp ở ViệtNam, ví dụ như Nhiếp chính vương Tôn Thất Thuyết dưới thời vua Hàm Nghi củaViệt Nam (1839 – 1913) là người lãnh đạo quan trọng của phong trào Cần vươngđánh Pháp, sau khi thất bại chạy sang Trung Quốc, đã được Chính phủ nhà Thanhsắp xếp cho chỗ ở và bảo vệ. Đầu thế kỷ 20 Việt Nam bước vào gia đoạn cách mạnhdân chủ tư sản, hoạt động của các chí sĩ yêu nước Việt Nam như Phan Bội Châu…được Lương Khải Siêu và Tôn Trung Sơn ở Trung Quốc ủng hộ. Tháng 5/1925 Hồ ChíMinh lại thành lập Hội Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí ở Quảng Châu, đólà tổ chức cách mạng đầu tiên của Việt Nam được chỉ đạo bằng Chủ nghĩa Mác –Lênin, cũng là tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng Cộng sản Trung Quốcđã ra sức ủng hộ Hồ Chí Minh. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc như Chu Ân Lai, LýPhú Xuân đã đến giảng bài tại “Lớp huấn luyện chính trị đặc biệt”, đào tạo mộtlớp cán bộ cách mạng, phần lớn trong số họ về nước tham gia đấu tranh cáchmạng, cũng có một số ở lại cùng chiến đấu với các đồng chí Trung Quốc, đóng gópcho sự nghiệp cách mạng của nhân dân Trung Quốc. Từ năm 1930 Hồ Chí Minh vàĐảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo quần chúng công nông đấu tranh chống Pháp,chống Nhật, không ít cán bộ cao cấp của Việt Nam như Hoàng Văn Thụ, TrườngChinh, Chu Văn Tấn, Nguyễn Văn Minh đều đã tiến hành đấu tranh cách mạng trongsự che chở, bảo vệ của nhân dân hai tỉnh Quảng Tây và Vân Nam. Hồ Chí Minh đãhoạt động lâu dài ở Trung Quốc, xây dựng mối quan hệ chiến đấu hữu nghị sâunặng với Đảng Cộng sản Trung Quốc và nhân dân Trung Quốc, đến năm 1944 mới trởvề Việt Nam, năm 1945 lãnh đạo nhân dân Việt Nam giành thắng lợi trong cuộc“Cách mạng tháng Tám”, Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tuyên bố thành lập.

3 nhận xét:

TranKienQuoc nói...

Họ dựa vào 1 cái gốc và "biến tướng". Về phía ta rất cần việc quảng bá những sự thực cho thế giới biết.

Quang Vinh nói...

Một nửa sự thật có thể là một điều giả dối. Người tuyên truyền có thể sử dụng đến 99% sự thật để che lấp cho 1% giả dối, thay đổi hoàn toàn bản chất vấn đề. Lịch sử lập nước và giữ nước không phải hình thành từ khi Đảng CS Việt Nam ra đời, nó kéo dài suốt quá trình ra đời và tồn tại của dân tộc ta. Ý tưởng bóp méo lịch sử sẽ không bao giờ thực hiện được. Họ có thể lừa dối người Trung Quốc nhưng không thể lừa dối người Việt Nam. Ở Việt Nam, chỉ những kẻ táng tận lương tâm như Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống... mới có thể nuốt được giọng lưỡi này.

TranKienQuoc nói...

Bác Vinh nói đúng!
Sẽ còn tiếp 1 vài bài để thấy bộ mặt thật của họ.