1- Tiểu sử: Phan Thanh
Giản (1796 - 1867), tự Tĩnh Bá, Đạm Như , hiệu Ước Phu, Lương Khê; là một danh
sĩ, một đại thần triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam .
Phan
Thanh Giản xuất thân trong một
gia đình nghèo khổ. Tương truyền tổ phụ Phan Thanh Giản là Phan Thanh Tập, hiệu
Ngẫu Cừ, sống ở thời nhà Minh
(Trung Hoa). Sau khi nhà Minh bị nhà Mãn Thanh tiêu diệt, Phan Thanh Tập di
cư sang phủ Hoài Nhơn, tỉnh Bình
Định (Việt Nam ). Nơi đây
ông cưới vợ tên Huỳnh Thị Học, sinh được một trai tên là Phan Thanh Ngạn tục
gọi là Xán.
Mộ phận cụ Phan Thanh Giản. |
Năm 1771, gia đình ông Ngạn vào Nam tạm cư
ở Thang Trông, thuộc tỉnh Định
Tường. Sau dó lại dời về Mân
Thít, trấn Vĩnh Thanh (thuộc Vĩnh
Long ngày nay), rồi lại dời về ở
huyện Bảo An, phủ Hoằng Trị, cũng thuộc tỉnh Vĩnh
Long. Cuối cùng ông Ngạn đến lập nghiệp tại thôn An Hòa, làng Tân Thạnh, huyện Vĩnh Bình, phủ Định Viễn, trấnVĩnh
Thạnh (nay là xã Bảo Thạnh, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre). Ở đây, ông cưới người vợ tên
Lâm Thị Bút. Ngày 11 tháng 11 năm 1796,
bà hạ sinh được một con trai tên Phan Thanh Giản. Năm Phan Thanh Giản lên 7
(1802), thì mẹ qua đời, cha cưới người vợ nữa tên Trần Thị Dưỡng để có người
chăm sóc con. Bà mẹ kế này rất thương yêu con chồng. đến tuổi đi học, ông theo
học với nhà sư Nguyễn Văn Noa ở chùa làng Phú Ngãi.
Năm 1815, vì sự tố cáo gian của kẻ có thù
riêng với gia đình, cha Phan Thanh Giản lúc ấy đang làm Thủ hạp (một viên chức
nhỏ), phải ngồi tù. Nóng lòng vì cha bị hàm oan, ông đệ đơn lên quan cai trị ở Vĩnh Long xin được thay cha vào tù.
Cảm động trước tấm lòng hiếu thảo, viên quan này đã cho ông ở gần nơi cha bị
giam cầm, để vừa trau dồi kinh sử, vừa có cơ hội thăm cha mỗi ngày. Sau khi cha
được mãn tù, Phan Thanh Giản ở lại Vĩnh
Long để tiếp tục học và chờ đợi
khoa thi. Tại đây, ông gặp một người đàn bà nhân hậu tên Ân. Bà này đã giúp ông
tiền và cơm, áo...để tiếp tục theo đuổi việc đèn sách. Năm 1825, ông đậu Cử nhân khoa Ất Dậu. Sau đó một năm, ông đậu đỗ Đệ
tam giáp đồng Tiến sĩ khoa Bính Tuất, niên hiệu Minh Mạng thứ 7 (1826), vào năm 30 tuổi. Ông là
người đậu Tiến sĩ khai khoa ở Nam bộ, từ đấy, ông làm quan trải ba
triều, là Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự
Đức.
2- Sự nghiệp và những dấu hỏi
Lịch sử:
Đã trên 140 năm, kể từ ngày 4/8/1867, cụ Phan Thanh Giản
kết thúc đời mình bằng 17 ngày nhịn ăn và chén thuốc độc tự vẫn vì buồn đau,
thương dân thương nước. Bi kịch đời cụ là bi kịch lịch sử cần được làm sáng tỏ.
Chuyện ấy đã thành sự thật.
Lễ an vị tượng cụ. |
Tượng cụ Phan. |
Khi thăm mộ và đền thờ Phan Thanh Giản, chúng tôi thấy rất nhiều vòng
hoa đang còn tươi của Tỉnh ủy, Ủy ban Nhân dân, Hội đồng Nhân dân tỉnh Bến Tre,
Huyện ủy, UBND, HĐND huyện Ba Tri, rồi các ban ngành, sở, xã Bảo Thạnh (Ba Tri)
đến viếng nhân ngày giỗ của cụ ngày 4/8. Nghĩa là đám giỗ cụ đã được tỉnh long
trọng tổ chức, chỉ một tuần trước khi chúng tôi đến Bến Tre. Dịp này, Sở
Văn hóa - Thể thao và Du lịch tỉnh Vĩnh Long cũng đã tổ chức lễ rước và an
vị tượng Phan Thanh Giản tại Khu Di tích Văn Thánh Miếu Vĩnh Long -
nơi Kinh lược sứ đại thần Phan Thanh Giản tuẫn tiết. Pho tượng Cụ tại quê do
cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt phụng hiến. Tượng đúc bằng đồng, cao 85 cm, nặng 250
kg, được tỉnh Vĩnh Long đặt trang trọng tại nơi thờ trong Văn Thánh
Miếu.
Thật vui khi được biết, ngày 24/1/2008, Cục trưởng Cục Di sản văn hóa
Đặng Văn Bài vừa có công văn gửi UBND tỉnh Bến Tre, cho biết Cục đã làm
việc với Viện Sử học và cơ quan này có công văn nêu rõ, các nhà sử học đánh giá
cao công lao của cụ Phan Thanh Giản trên nhiều lĩnh vực chính trị, ngoại giao,
văn hóa.
Cụ nổi tiếng thanh liêm, đạo đức, có nhiều đóng góp lớn đối với lịch sử
dân tộc trên các lĩnh vực văn học, sử học... Viện Sử học kết luận: “Với nhận
thức mới trên quan điểm lịch sử cụ thể, nhân vật Phan Thanh Giản xứng đáng được
tôn vinh bằng nhiều hình thức khác nhau”. Đó là sự phán quyết công bằng.
Như vậy Phan Thanh Giản đã được giải oan sau gần 150 năm mang tiếng “bán nước”.
Cụ Phan Thanh Giản có sự nghiệp học thuật vẻ vang, đỗ Đệ tam giáp Tiến
sĩ khoa thi Đình năm Bính Tuất (1826) ở Huế. Cụ là người đỗ Đại khoa tiến sĩ
đầu tiên của đất Nam Kỳ. Tháng 9/1835, cụ được phong Hiệp biện Đại học sĩ, đó
là chức quan hàm tùng Nhất phẩm, trên Thượng thư một bậc. Năm 1834, cụ được
phong Sung Cơ mật viện. 1848 đổi sang Thượng Thư Bộ Lại; 1851 làm Kinh lược Phó
sứ Nam Kỳ; 1853 Thượng thư Bộ Hình, Sung Cơ Mật viện; 1856: Chánh tổng tài Quốc
Sử Quán…
Những năm 1836, 1840 bị giáng chức vì can ngăn vua, có năm phải đi
khai mỏ vàng ở Thái Nguyên (1838), sau đó lại được phục hồi chức phẩm. Cụ là
Tổng tài phụ trách việc biên soạn bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục
trong ba năm 1856-1859, là bộ Quốc sử đồ sộ, lớn nhất thời Nguyễn gồm 53
quyển.
Về văn thơ cụ có
Lương Khê thi thảo gồm 454 bài thơ và Lương Khê văn tập (1876) do các con tập
hợp in sau khi cụ mất. Cụ còn có các tập thơ, nhật ký như Sứ Thanh thi tập, Tây phủ Nhật
ký, ghi chép trong chuyến đi Pháp… Cụ cùng Nguyễn Thông đã có công
xây Văn Thánh Miếu và lập Văn Xương Các ở Vĩnh Long…Chỉ ngần ấy thôi cụ cũng đã
là nhà văn, nhà văn hóa, nhà sử học lớn của dân tộc.
3- Giải đáp.
Nhưng nói về Phan Thanh Giản từ 150 năm nay có nhiều ý kiến khác nhau,
thậm chí trái ngược nhau. Không ít người cho rằng ông là người có tội
trong việc để mất 6 tỉnh Nam Kỳ vào tay quân Pháp khi ông làm Chánh sứ toàn
quyền đại thần ký hòa ước Nhâm Tuất 1862, từ đó có câu ca dân gian lên án Phan
Thanh Giản “bán nước” “Phan, Lâm mãi quốc; triều đình khí dân”.
Vua Tự Đức, ông vua “chủ hòa” đã cho rằng cụ đã làm mất Lục tỉnh Nam Kỳ,
nên phán: ”xét phải tội chế, chưa đủ che được tội” và nghi án “truy đoạt lại
chức hàm và đẽo bỏ tên ở bia tiến sĩ, để mãi cái án trảm giam hậu”.
Các nhà sử học cũng không đồng nhất quan điểm. Nhiều nhà sử học quê
hương Nam Bộ hiểu nhân cách và khí tiết Phan Thanh Giản đã không đồng thuận với
phán xét của vua Tự Đức và quan điểm của chính sử đương thời.
Năm 1963, ở miền Bắc, kết luận tổng kết cuộc tranh luận về Phan Thanh
Giản trên Tạp chí Lịch sử, một nhà sử học đã lại lên án Phan Thanh Giảm
phạm tội “bán nước”, “dâng thành hiến đất cho giặc”. Dù vậy, cũng không giải
tỏa được băn khoăn của nhân dân và giới sử học.
Nhưng quan niệm của đồng bào Nam Bộ lại khác. …Người dân Miền Tây hiểu
rất rõ công - tội của cụ Phan Thanh Giản, rằng thời kỳ đó, triều đình Huế là
mới là nguyên nhân chính để mất lục tỉnh Nam Kỳ, vì đã quyết “chủ hòa”. Cụ Phan
Thanh Giản không thể tự mình làm trái ý vua. Nên không thể quy cho cụ tôi “bán
nước” hay “phản bội Tổ quốc”. Mặc dù cụ vẫn ý thức được hoàn cảnh và trách
nhiệm của mình.
Trong lá sớ gửi vua Tự Đức trước khi tự vẫn, cụ viết: “Nghĩ tôi đáng
chết, không dám sống cẩu thả để cái nhục lại cho quân phụ”! Ngay sau khi cụ
tuẫn tiết, nhân dân Vĩnh Long đã đưa linh vị của cụ vào thờ ở Văn Thánh
Miếu. Nguyễn Đình Chiểu, nhà thơ, nhà yêu nước cùng thời, cùng sống ở Ba
Tri với Phan Thanh Giản lại có thơ điếu ca ngợi cụ: “Minh tinh chín chữ lòng
son tạc…”.
Trong Văn tế lục tỉnh sĩ dân trận
vong, cụ Đồ Chiểu viết về Phan Thanh Giản: “Phan học sĩ hết
lòng mưu quốc”. 10 năm sau khi Phan Thanh Giản tự vẫn, năm 1886, vua Đồng Khánh
đã xét lại công tội của cụ và đã ra chiếu chỉ “khai phục nguyên hàm” và
khắc lại tên trong bia tiến sĩ ở Văn Miếu Huế cho cụ Phan Thanh Giản. Dưới chân
núi Ba Thê, Thoại Sơn, An Giang có đền thờ Phan Thanh Giản từ trăm năm trước.
Ở xã Tương Bình Hiệp (Bình
Dương), từ khi cụ mất, nhân dân đã thờ cụ ở trong Đình làng. Và ngày 25/8/1924,
vua Khải Định đã sắc cho đình Tương Bình Hiệp thờ cụ làm Thần. Bản sắc dịch ra
như sau: “Nay sắc cho xã Tương Bình Hiệp, tổng Bình Phú, tỉnh Thủ Dầu Một phải
phụng thờ Tam giáp Tiến sĩ, Hiệp tá đại học sĩ, Sung cơ mật viện đại thần Phan
Thanh Giản tướng công làm thần giữ nước giúp dân. Vì ông thường linh ứng nên
nhân tiết tứ tuần đại khánh trẫm ban bửu chiếu phong cho ông vào bậc ĐOAN TÚC
DỰC BẢO TRUNG HƯNG TÔN THẦN, chuẩn cho phụng thờ ông làm thần để giúp đỡ và che
chở dân đen của ta...”.
Như vậy các vua Nguyễn sau Tự Đức đã hiểu đúng công lao của Phan Thanh
Giản!
Trước năm 1867, trong thư gửi cho Tổng đốc An Giang và Tổng đốc Hà Tiên,
Chánh sứ Phan Thanh Giản viết: “Lá cờ ba sắc (chỉ cờ Pháp) không thể phấp phới
bay trên một thành lũy ở đó Phan Thanh Giản còn sống…”.
Theo sử sách thì cụ Phan có ba người con trai là Phan Hương, Pham Liêm
và Phan Tôn sau khi cha mất đã cầm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp ở Ba Tri,
Bến Tre cuối năm 1867.
Khi cuộc khởi nghĩa bị quân Pháp đàn áp, ba anh em dùng thuyền chạy
thoát ra Bình Thuận. Phan Hương ở lại Phan Thiết, ẩn mình sống bằng nghề nông.
Còn Phan Tôn và Phan Liêm đi bộ ra Huế, sau đó theo Nguyễn Tri Phương ra Bắc
chống Pháp, tử thủ bảo vệ thành Hà Nội. Sau khi bị bắt, hai anh em được đưa
sang Pháp. Năm 1888, chính phủ Pháp cho họ về lại Việt Nam, Phan Liêm được bổ
làm Phủ doãn Thừa Thiên và là người làm thầy dạy dỗ Bửu Lâm 10 tuổi, tức vua Thành
Thái mới lên ngôi.
Cuối năm 1994, tại Vĩnh Long, hai tỉnh Bến Tre và Vĩnh Long phối hợp với
Hội khoa học lịch sử đã tổ chức cuộc Hội thảo khoa học lớn về Phan Thanh Giản
với ý muốn làm rõ hơn công tội của cụ. Cuộc Hội thảo này có nhiều bài tham
luận công phu, sâu sắc, là một bước tiến mới, công bằng hơn trong đánh giá Phan
Thanh Giản. Sau cuộc hội thảo này giáo sư Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học
Lịch sử Việt Nam (lúc đó) đã có một bản kết luận sâu sắc và công tâm.
Có thể đây là một cơ sở để giúp cho Cục Di sản và Viện Sử học đi đến
quyết định “phục hồi danh dự” cho cụ Phan Thanh Giản năm 2008.
Đứng trước mộ cụ Phan Thanh Giản tôi cứ nghĩ miên man về nỗi niềm lịch
sử. Hết lòng vì dân vì nước nhưng lại không được người đời hiểu mình. Hơn ba
chục năm qua, tất cả những đường phố, trường học mang tên Phan Thanh Giản đều
bị gỡ bỏ. Tượng cụ ở Châu Thành, ở trường Trung học Cần Thơ cũng bị gỡ. Hẳn
nhiên bức tượng nằm trong lòng dân mới là vĩnh cửu.
Một tin vui nữa là tại kỳ họp lần thứ 13 HĐND tỉnh Bến Tre khóa VII
(ngày 10 và 11/4/2008) đã thông qua việc đổi tên trường THPT Ba Tri thành
trường THPT Phan Thanh Giản từ năm học 2008-2009. Sắp tới tỉnh sẽ dựng lại
tượng cụ Phan Thanh Giản. Riêng tôi cứ ước ao không chỉ ở Bến Tre, Vĩnh Long mà
tên của Đại thần Phan Thanh Giản tài hoa, khí tiết sẽ được đặt lại cho nhiều
trường học và đường phố ở miền Nam như trước đây.
@@@@@@@@@@@@@@
4 nhận xét:
Vai trò cá nhân của ông được lịch sử đánh giá 1 cách công bằng. Thông tin rất bổ ích.
Thông tin cần thiết, vì theo sách giáo khoa chúng ta chỉ nhớ câu: "Phan Lâm mãi quốc, triều đình khi dân"! mà thôi. Thật oan cho cụ. Trong lịch sử VN không biết còn bao nhiêu lệch lạc nữa không biết?
NHỮNG GÌ CỤ PHAN ĐÓNG GÓP CHO QUÊ HƯƠNG, ĐẤT nƯỚC SE MÃI ĐƯỢC NHÂN DÂN VÀ LỊCH SỬ GHI NHẬN.
"Cụ Phan Thanh Giản không thể tự mình làm trái ý vua." Có lẽ đây chính là việc cần bàn. Dẫu việc đầu hàng là "làm theo ý vua" thì cụ vẫn có tội với dân với nước. Khi vua bảo hàng thì quan vẫn có thể chống giặc, như Trương Định đã làm và được nhân dân ngợi ca. Chén thuốc độc nói lên tấm lòng của cụ không muốn đầu hàng mà "bất đắc dĩ tuân lệnh trên", các con cụ dũng cảm vượt lên trên "tấm lòng trung" để chống Pháp cũng đã được nhân dân ca ngợi. Đầu hàng, bán nước vì quyền lợi riêng đáng bị lên án, thì đầu hàng vì "tuân theo lệnh" cũng đáng bị lên án. Đừng vì "cái trung" với "một người", hay "một nhóm người" mà làm hại nhân dân , đất nước, vết nhơ khó rửa. Tiêu chuẩn đạo đức cao nhất của người Việt là yêu nước. Tôi không thấy bài viết chứng minh cụ không ký hòa ước nên nghĩ cụ vẫn có lỗi, dù đó là ký do "tuân mệnh vua". Trong hoàn cảnh nước ta, bất cứ ai vì "tuân mệnh vua" mà hàng giặc thì vân có tội với dân với nước.
Đăng nhận xét